Monday, August 1, 2011

Pulau Bidong Miền Đất Lạ - Chương 3

Chương 3 :

BẠC LIÊU, NHỮNG NGÀY CHỜ ĐỢI

Tôi cầm tấm ny lông mỏng giũ nhè nhẹ cho sạch bụi đất, xong rồi trải thẳng ra trên nền gạch phẳng phiu. Nó vừa được làm giường ngủ, vừa làm bàn ăn, vừa là chỗ viết thơ, chỗ ngồi chơi chuyện vãn với bạn bè... Giang sơn của vợ chồng tôi đó được tạm chiếm lúc cả đám người vượt biên bán chánh thức ùa vào căn nhà số 218B đường Hòa Bình ở thị xã Bạc Liêu. Cái thị xã nổi tiếng với câu ca dao:

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.

Đó là một căn phố trệt thấp lè tè cũ kỹ, dây điện đứt giăng tứ tung. Không bàn, không ghế, không tủ giường, đứng từ trước ngó thẳng ra sau là một gian phòng trống bóc, chỉ trơ ra hai bức tường vôi vàng nhạt bụi bặm. Chỉ có một đống rác lù lù ở giữa phòng. Trời đã xế chiều, mặt trời đỏ bầm đã nghiêng hẳn về một bên, nắng vàng nhạt chỉ còn thoi thóp ở đọt cây sua đũa bên kia đường. Phải thu xếp lẹ mới có chỗ ngả lưng tối nay. Ai nấy đều mệt nhừ sau một ngày di chuyển từ Sài Gòn xuống, vậy mà cũng phải xăn tay vào dọn dẹp, lau chùi cho sạch sẽ. Cũng may vòi nước máy còn sử dụng được. Phía sau nhà tắm có một hồ nước, cũng đủ dùng cho cả đám người lôi thôi lếch thếch, chợ không ra chợ mà quê chẳng giống quê, hằng ngày tắm rửa giặt giũ. Căn phòng được chia ra làm nhiều phần. Mỗi phần một gia đình, cứ tùy tiện chiếm cứ, lấy tấm ny lông hoặc vải màn làm chuẩn người nhiều hay ít, diện tích phần đất nhỏ hay to. Tấm ny lông in sọc vuông đỏ của tôi bề dài gấp đôi bề ngang so đi so lại vừa sát mí năm tấm gạch bông. Căn nhà từ lâu hoang vắng im lìm bỗng dưng chiều nay náo nhiệt ồn ào hẳn lên. Tiếng người lớn nói chuyện lao xao, tiếng con nít chạy giỡn, la khóc đòi ăn, tạo thành một hoạt cảnh rộn ràng. Duyên đã lanh tay tìm được ở sau bếp một cái nồi nhôm cũ đen thui, đem chùi rửa sạch nấu cho Bi chai sữa. Còn tôi với nàng thì mỗi đứa một khúc bánh mì có kẹp vài miếng thịt mỏng đã mua sẵn từ ban trưa, khi xe chạy ngang bến bắc Cần Thơ. Rải rác xung quanh ai nấy cũng đang dùng bữa chiều. Mặt trời đã tắt hẳn, đêm tối sụp xuống quá nhanh. Đàn muỗi đói ở các vùng sình lầy quanh vùng bay vi vu hằng triệu triệu con tấn công tới tấp đám người mới tới. Trời ơi, sao cái đất gì mà muỗi nhiều quá! Hèn chi mà có câu:

Xứ đâu như xứ Canh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh như bánh canh.

Chắc cái vùng nổi tiếng Canh Đền cũng ở gần đâu đây nên Bạc Liêu muỗi nhiều quá sức tưởng tượng. Mỗi khi muốn nói chuyện phải lấy tay che miệng nếu không thì có một hai con bay tuốt vào trong đóc giọng, khạc chẳng ra mà nuốt chẳng vào. Cả đám không ai ngồi yên được phải quơ tay quơ chưn mà đập bồm bộp. Có người nhanh trí sai đám con nít ra ngoài đi kiếm xơ dừa, vỏ quít, vỏ cam, vải vụn, xác mía làm thành một đống un lớn ở trước cửa ra vô. Khói bay cay xè mặt mũi, đàn muỗi bay dạt ra xa. Người nào người nấy nước mắt nước mũi dầm dề, tuy vậy vẫn còn dễ chịu hơn muỗi chích. Ai đó không biết đã mò ra được một cây đèn dầu, cái ống khói đen thui, ngọn lửa đỏ tù mù, mùi dầu hăng hắc. Cây đèn được để trên sàn gạch giữa phòng, khi có người đi qua đi lại, nó hắt cái bóng lên tường lung linh chập chờn ma quái. Trong bóng đêm chập choạng, một giọng nói thiệt lớn ồm ồm:
-- Cái xứ Bạc Liêu nầy thiệt tình, muỗi con nào con nấy lớn như con gà mái.

A, cái anh chàng trọng tuổi có ‘nhà’ ở kế tôi, đang ngồi dựa vách đập muỗi. Tấm ny lông của anh ta lớn nhứt phòng. Có lẽ vì bầu đoàn thê tử của ‘chàng’ quá đông. Một vợ năm con mà toàn là con gái. Cả đám ríu rít ồn ào như đàn ong vỡ tổ. Anh tuy đã con đùm con đề nhưng vẫn còn chải chuốt. Tóc chải láng bóng, cổ đeo lủng lẳng mặt mề đay vàng nặng cả lượng, tay đeo đồng hồ vàng, nhẫn nạm hột. Tôi xề lại ngồi kế bên làm quen:
-- Đâu có anh, nó chỉ lớn bằng con ruồi ở Sài Gòn thôi mà!
Anh ta cười, tôi thấy cái lưng hơi khòm một bên.
-- Bằng con ruồi thì cũng dư sức khiêng hết đám tụi mình tối nay mùng đâu mà ngủ. Bồ có đem theo mùng không?
-- Không có mới chết chớ. Hồi đóng tiền Hủ Tiếu dặn kỹ là đừng có đem theo lưới theo mùng, xui lắm. Đi biển kỵ nhứt là vướng lưới. Mình đâm nghe lời bây giờ mới thấy ngu.
-- Vậy chút xíu nữa mình kêu ‘giả’ bắt kiếm mùng cho cả đám ngủ, chớ làm sao chịu cho nổi tối nay, con nít bịnh hết. Một mình tôi tới năm đứa lận!
-- Ừ, ừ, chắc phải vậy. Mà anh ở Sài Gòn miệt nào?
-- Tôi ở Trần Hưng Đạo, chuyên bán máy cày. Có bao giờ đi mua máy móc gì ở miệt đó không?
-- Tôi làm thầy giáo ở Bình Dương mà mua máy cày làm cái gì. Nhưng biết vùng đó rành lắm. Ông ngoại Bi cũng ở miệt nầy. Vậy anh cũng là chỗ quen biết lối xóm.

Hồi tôi mới làm quen với Duyên, dãy phố đó còn nhớ như in. Bắt đầu từ rạp Nguyễn Văn Hảo góc Bùi Viện chạy vô tới khu Phát Diệm Chợ Quán, hai bên bán toàn máy móc, phụ tùng xe cộ... Lúc đó hai đứa thường rủ nhau đi ăn hủ tiếu Mỹ Tho ở ngã tư Quốc Tế. Nhờ đó mà thấy tận mắt nhiều nghệ sĩ cải lương nổi tiếng như Thanh Nga, Thành Được, Bạch Tuyết, Hùng Cường, v.v... bằng xương, bằng thịt rõ ràng.
Anh tư Trần Hưng Đạo kề sát tai tôi hỏi nhỏ:
-- Bồ đóng cho Hủ Tiếu mấy cây vậy?
-- Tôi ở tuốt trên tỉnh, có biết gì đâu. Nhờ mấy đứa em liên lạc dọ hỏi mới biết chuyến đi nầy. ‘Giả’ đòi người lớn mỗi người mười cây, con nít phân nửa giá còn dưới sáu tuổi thì một cây. Còn anh bao nhiêu?
-- Thì tôi cũng y như vậy. Tụi mình may đó nghe chớ tháng trước mấy chuyến tàu sắt như Hải Hồng mỗi người phải đóng từ mười lăm đến hai chục cây lận. Bồ biết không tụi cơ quan Hoa Vận nó tính theo đầu người. Mỗi người nó lấy năm cây, còn lại năm cây là phần của Hủ Tiếu dùng để mua ghe mua tàu, dầu mỡ, máy móc, thực phẩm, rồi còn phải hối lộ cho Công an đủ thứ...
-- Anh mua giấy tờ hết thảy bao nhiêu?
Anh chàng cười khà khà, cũng cái giọng ồm ồm:
-- Tui là Tàu lai mà, cần gì phải giả. Giấy tờ ghi rõ tên họ đàng hoàng. Tôi họ La. Ba người Tàu, má người Việt!
-- Ừ, ừ, anh hên quá. Tôi phải mua đủ thứ hết.

Nguyên lúc chuẩn bị đăng ký chuyến đi nầy, tôi phải mua một số giấy tờ giả để làm người Hoa. Một tờ hộ khẩu giá một ngàn đồng, mỗi thẻ cử tri một trăm hai chục, tờ khai sanh cho Bi giá sáu chục. Rồi phải chụp hình cho giống người Hoa nữa. Lương một giáo viên cấp ba hiện thời là sáu chục đồng một tháng. Nhà nước Cộng sản muốn đuổi người Hoa ra khỏi xứ sau những vụ xích mích ở biên giới phía Bắc nên cho tổ chức những chuyến vượt biên. Gọi là bán chính thức vì cho phép trong vòng bí mật mà thôi, trên danh nghĩa vẫn là những chuyến đi trốn. Những người đăng ký phải là người Hoa có giấy tờ tên tuổi hẳn hòi. Lúc nầy chưa cấp thẻ căn cước theo chế độ mới nên người dân chỉ cần có thẻ cử tri và tờ hộ khẩu là đủ. Mấy giấy nầy khi mua đều được để trống, người mua tự ý điền vô tên gì cũng được, chỉ có phần dưới đóng dấu son đỏ và chữ ký sẵn của phường quận xác nhận đàng hoàng. Khi đưa những tờ giấy cho tôi, Tuyết đã nói như vầy:
-- Anh tìm cái tên nào cho thiệt hên. Chuyến đi nầy quan trọng lắm đó. Bút sa là gà chết à nghen.
Lan, đứa em út nói nghiêm trang:
-- Không phải một con đâu mà là một bầy!

Trời đất, tụi nhỏ nầy ăn nói ẩu tả quá. Sắp đi tới nơi rồi mà nghĩ chuyện tầm bậy không hà! Tuy nhiên tôi cũng đắn đo. Mấy em có lý khi dè dặt chuyện đặt tên cho từng đứa. Nội anh em ruột, tất cả là sáu đứa chưa kể chồng vợ và con cái dắt theo. Một bầy gà có gà mái, gà trống và gà con. Tôi là con gà trống đầu đàn. Tuy mấy em đều đã lớn khôn nhưng rủi có bề gì... tôi không dám nghĩ đến. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi tự đặt tên cho mình. Cầm tờ giấy tôi trầm ngâm hằng giờ. Chuyến đi nầy đánh đổi bằng cả sự nghiệp, cả mạng sống... Suy nghĩ hồi lâu, tôi nói:
-- Anh chọn tên là Trần Nguyên, ba mươi bảy tuổi.
Duyên nóng ruột hối tôi giải nghĩa:
-- Chữ Nguyên có nghĩa là đứng đầu. Anh là chủ hộ mà, hơn nữa còn có nghĩa là còn nguyên, trọn vẹn an lành, chuyện vượt biển làm sao mà lựa chọn, chỉ còn biết cầu Trời khẩn Phật cho may mắn bình yên mà thôi!
Duyên nghe chừng thích chí:
-- Chọn dùm cho em đi. Em mong sao cho chuyến đi gia đình mình được vuông tròn, tới bờ tới bến yên vui.
Đang tìm kiếm đắn đo, nghe nàng nói đến hai chữ "vuông tròn" tôi mừng rỡ chộp lấy:
-- Rồi, được rồi, em tên là Từ Phương Viên. Tên Bi thì dễ rồi, để biên vô khai sinh nó tên Trần Tiến Đạt. Tiến là đi tới trước, tới nơi chớ không phải ra tới bến rồi dội trở về như anh Hai Tửng. Đạt là thành công. Em tên là Phương Viên có nghĩa là vuông tròn.

Từ đó, khi nào rảnh rỗi tôi thường lẩm nhẩm trong đầu -mình tên Trần Nguyên, Trần Nguyên, Trần Nguyên, đừng có quên, quên là hư bột hư đường. Lâu lâu tôi nhắc chừng Duyên -em tên là Từ Phương Viên, vợ chồng mình bán đồ nhựa nồi niêu soong chảo ở đường Lương Nhữ Học số 86, rán nhớ nghe.

Giọng tư Trần Hưng Đạo vẫn đều đều bên tai:
-- Không biết bồ đi lần nầy là lần thứ mấy, chớ tôi là lần thứ ba. Hai lần trước bị gạt mất cũng bộn, may là không bị bắt, xuống dưới Long Thành lội sình thấy bà, bị Công an rượt chạy vắt giò lên cổ.
-- Vậy là anh cũng đầy kinh nghiệm chiến trường rồi. Tôi mới đi lần đầu. Hồi sớm mới ra bến xe Hậu Giang, mua vé chợ đen hai mươi đồng để xuống đây. Vừa ngồi trên xe vừa run. Cũng may chuyến xe tôi đi toàn là dân bị chở đi xây dựng kinh tế mới, có treo cờ với biểu ngữ hai bên hông xe, tới trạm kiểm soát nó cho đi luôn.
-- Từ Sài Gòn xuống đây thì còn sợ. Chớ vô địa phận tỉnh Bạc Liêu rồi thì khỏi lo. Công an Bạc Liêu có cấp cho mỗi nhà trọ, như nhà mình ở đây một giấy phép được cư ngụ tạm để vượt biên theo ghe BL 1648, yêu cầu các cấp chánh quyền địa dành mọi sự dễ dàng, cũng như kiểm soát. Rồi anh tiếp:
-- Cả khu nầy là nhà của tư sản hoặc của sĩ quan đi học tập, bị tịch thâu để trống. Tụi nó lấy cho mình ở tạm vài ngày để đi.

Nghe anh nói tôi cảm thấy phấn khởi náo nức. Hồi trưa khi vừa mới xuống tới bến xe Bạc Liêu, việc đầu tiên là tôi đi thẳng ra bờ sông lại ngay chỗ bến ghe để tìm chiếc BL 1648. Đây rồi, nó đang đậu cặp bến, cái be ghe cao vượt hơn bờ đá có trên hai thước:... Nó lớn quá. Đây là lần đầu tiên tôi để ý nhìn kỹ một chiếc ghe đi biển. Nó khác ghe đi sông ở cái mũi nhọn hình mũi tên cao vút lên, nhọn hoắt chớ không bầu. Phía sau lái thấp chũng xuống đít bằng. Một cái phòng lái hình vuông vức ở bên trong. Phía trước có trồng một cây trụ cao hình chữ thập để định hướng. Thành ghe được đóng bằng ván sao dầy cỡ bốn, năm phân tây, dưới lườn có bọc lưới sắt và tô xi măng để khỏi bị hà ăn hoặc nước mặn làm hư mục. Có nhiều vỏ xe hơi cũ treo cặp hai bên hông ghe. Sợi dây đỏi to bằng bắp tay nối liền ghe với chiếc cọc sắt thiệt lớn đóng chắc chắn ở trên bờ đá. Các bạn ghe làm việc lăng xăng. Họ đi lại trên tấm ván đầy nhún nhẩy đong đưa bắt từ bờ xuống be ghe coi nhịp nhàng.

Chiếc ghe của tôi đó. Tới năm tây tháng Giêng nầy nó sẽ chở tôi cùng gia đình, bắt đầu cuộc hành trình vượt đại dương trốn chạy cái thiên đường Cộng sản. Tôi từ nhỏ đến lớn sống ở vùng đất đồi đá khô cằn, mắt thường nhìn thấy những chiếc tam bản nhỏ xíu len lỏi trong các sông rạch nên bây giờ thấy được một chiếc ghe đi biển, lòng nôn nao phấn khởi lạ thường. Ghe lớn như thế nầy; ván dầy như thế nầy thì sợ gì sóng to gió lớn, sợ gì đại dương bao la. Tôi tự nhủ trong lòng -không sợ, không có gì phải sợ hết. Biển cả thì cũng đã biết qua, chắc cũng y như biển Vũng Tàu, Nha Trang, Rạch Giá, Phú Quốc. Nhưng có điều mấy biển đó tôi chỉ tắm loay hoay ở trong bờ. Còn từ Sài Gòn ra Phú Quốc thì đi bằng máy bay! Thiệt tình, có sợ hay không tôi không biết nữa. Tất cả mọi việc hên xui, thôi đành giao hết cho... ông Trời!

Tối đó nhờ có anh tư Trần Hưng Đạo cằn nhằn cẳn nhẳn, Hủ Tiếu chạy đôn chạy đáo ở đâu không biết kiếm được một cái mùng nhà binh thiệt lớn. Đem giăng lên nó trùm hết cả căn phòng rộng rinh. Đã ơi là đã! Cả đám mừng rỡ, chun vô ngủ, đếm được cả thảy vừa người lớn vừa con nít, hai mươi ba người nằm sắp lớp y như đi cắm trại ngủ chung tập thể. Cái đèn cũng còn để y nguyên giữa mùng. Cái mùng cũ xì đen thui. Tôi nằm ở dưới rán giương mắt nhìn vào những lằn may, những nếp gấp trên nóc để coi có rệp bò không, nhìn hoài mà không thấy. Nhưng ở đời, nhiều lúc phải hiểu ngầm rằng không thấy không có nghĩa là không có. Tối tối đi ngủ, đâu có ai mang theo kiếng làm chi, cái gì cũng thấy mờ mờ ảo ảo, con rệp lại nhỏ xíu! Nhưng dầu sao với cái mùng nầy, có cũng còn hơn không!

Ai nấy mệt mỏi cả ngày, mới đặt lưng chừng năm ba phút sau người nào người nấy ngủ mê man như chết. Tiếng anh tư Trần Hưng Đạo ngáy khò khò, tiếng thằng Dân thủy thủ ú ớ. Tôi mơ màng thấy chiếc BL 1648 lướt sóng phăng phăng, tiếng máy nổ đều đều dòn dã, cái mũi nhọn lao tới trước nhanh như mũi tên bắn. Phía sau lái, sóng sủi bọt cuồn cuộn cái đuôi trắng xóa kéo dài lê thê. Trên trời là mây xanh trong vắt, rải rác có những đám mây trắng bay lãng đãng như bông gòn. Từng đợt sóng biển vỗ êm ái nhịp nhàng hai bên hông ghe. Trên đầu nhiều cánh hải âu bay lượn. Nước biển trong xanh nhấp nhô dưới ánh mặt trời chói lọi miền nhiệt đới. Lòng tôi cũng như lòng biển bao la...
*
* *
Trời đã xế chiều mà không khí vẫn còn hâm hấp nóng. Đám con nít sau một hồi đùa giỡn om sòm đã rủ nhau đi mua xá xị, nước cam ở cửa hàng ăn uống quốc doanh kế bên Ty Nông Nghiệp. Còn lại trong phòng chỉ còn có tôi với thằng Dân ‘gì đó’. Cái thằng ốm nhom, ốm nhách lại ưa mặc áo thun ba lỗ, phơi cái ngực mỏng te, tối ngày cứ nằm dài đọc ba cuốn sách hoạt hoạ xanh xanh đỏ đỏ của Hồng Kông. Mỗi lần đọc được một đoạn nào có vẻ thích thú, anh ta ôm bụng cười lăn cười lộn, chưn chẳng cong queo, nhiều lúc tôi thoáng thấy cái răng bịt vàng bên trong. Thiệt đúng là có duyên nhờ mấy cái răng vàng lóng lánh.

Thấy anh đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nếp lại tươi răng vàng.

Trong chuyến đi nầy có hai anh bạn tên Dân, một anh mập mà lùn, đen thui. Một anh ốm nhom, cao nhồng, cũng đen thui! Hồi mới quen, tôi biết cả hai cùng tên nhưng không biết làm sao phân biệt. Lần hồi rồi cũng xong. Cái anh mập mà lùn làm ‘bạn’ ghe, tụi tôi kêu là Dân ‘thủy thủ’ còn cái anh ốm nhom, cao nhồng, người Tàu Chợ Lớn, mỗi lần nói chuyện, bất luận câu nào, ý nào, anh ta cũng chêm thêm hai tiếng ‘gì đó’ ở cuối. Thôi vậy cũng dễ, cả đám vượt biên trong nhà bèn đặt luôn Dân ‘gì đó’ cho tiện.

Dân ‘gì đó’ chừng độ mười tám, mười chín là nhiều, mới vừa học hết sơ trung ở trường Phước Đức thì Sài Gòn đổi chủ. Anh ta nghỉ học đi làm công cho Hủ Tiếu ở đường Minh Phụng. Hủ Tiếu bị liệt vào hàng tư sản, tiệm bị đổi thành cửa hàng ăn uống quốc doanh, bèn liều mạng mua ghe mua tàu tổ chức vượt biên. Khi chuẩn bị sắp xếp để đi có hứa cho nó với thằng Kiệt, đứa em ruột mới mười sáu tuổi theo, với điều kiện khi nào tới Mỹ thì trả tiền sau bằng đô la. Ba má hai đứa nghèo nên mừng lắm chịu liền. Tôi thấy trong cái xách tay nó gối đầu có vài bộ quần áo với mấy cuốn sách hình cũ xì te tua, ngoài ra không còn gì hết. Cái thằng, thiệt tình, tôi đang rầu thúi ruột mà sao nó vẫn tỉnh queo. Đã trên mười ngày ăn chực nằm chờ ở cái đất Bạc Liêu nhiều muỗi nầy, chiếc BL 1648 vẫn nằm chình ình trên bến. Mỗi trưa đi ra quán cơm, tôi nhìn nó rập rình trên làn nước đục ngầu phù sa mà đâm mệt ngang. Phải chờ tới bao lâu nữa mới có lịnh cho đi. Mười mấy ngày chờ đợi rồi chớ ít oi gì sao. Hết đứng lại ngồi, nhiều lúc vịn vô song cửa ngó hàng giờ đám rau muống xanh rờn dưới mương cùng hàng cây sua đũa với những giàn phơi mì sợi giăng giăng như lưới đánh cá bên kia đường, lòng tôi nóng như lửa đốt. Vậy mà Dân ‘gì đó’ vẫn thản nhiên nằm coi sách hình thỉnh thoảng còn cười lăn cười lộn. Tôi lại gần nó, ngồi bệt xuống kế bên, hai tay ôm lấy đầu gối:
-- Dân nè, em đọc cái gì mà vui quá vậy, nói cho anh nghe với. Anh buồn quá, không biết chừng nào ghe mình mới được đi. Cứ tưởng xuống tới ngày trước là ngày sau đi liền, nhè đâu...
-- Anh lo làm chi cho mệt vậy. Khi nào nó đi thì nó đi, mà nó hổng đi là hổng đi. Cái chuyện gì đó có Hủ Tiếu với Nhựt Bổn lo rồi mà!
Tôi rầu rĩ thở than:
-- Hổng lo sao được. Nếu ghe mà đi không được thì sao mình có thể trở về an ổn. Ở tỉnh anh khó lắm! Em ở Chợ Lớn thì dễ, ít ai để ý. Tiền bạc mình giao cho người ta hết trơn rồi, bây giờ đòi ai!
Nó ngồi nhỏm dậy, nói như an ủi tôi:
-- Em nghe Hủ Tiếu nói thế nào cũng được đi mà! Đừng có lo, để em kể chuyện gì đó em đọc trong cuốn sách nầy, nghe cho đỡ buồn.
-- Ừa, ừa, kể đi.
Nó ngồi dựa lưng vô tường, thẳng chưn ra để cuốn sách úp trên đầu gối, bắt đầu kể. Tôi thấy cái lưng sao mà dài sọc, chắc thằng nầy làm biếng dữ lắm.
-- Hồi xưa ở bên Tàu, có một ông nhà giàu gì đó mướn một ông thầy giáo lại nhà để dạy học cho mấy đứa con nhỏ. Ông nhà giàu hỏi ông thầy giáo muốn ăn cái gì đó thì nói để ổng kêu vợ ổng nấu cho ăn. Ông thầy giáo vì tánh ưa mắc cỡ, hổng lẽ đòi ăn món ngon vật lạ gì đó nên buột miệng nói là thích ăn tàu hủ. Ông chủ cứ cho tôi ăn tàu hủ chiên đi, tôi coi tàu hủ như là mạng sống gì đó! Ông chủ nhà hà tiện, nghe qua mừng quá, ngày nào cũng cho ông thầy giáo ăn tàu hủ gì đó hoài.
Nghe tới đó tôi buột miệng la lên:
-- Chết cha ông thầy rồi, ăn hoài một thứ, ngán chết làm sao chịu nổi!
-- Ổng lỡ nói rồi, hổng lẽ nói lại, thầy giáo mà! Nói bậy, nói bạ gì đó thì cũng phải rán chịu.
Thành ra một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, ổng cứ phải ăn tàu hủ gì đó hoài hoài, thèm thịt lắm mà không dám nói. Gặp bữa đó tới Tết, ông chủ nhà dọn một mâm cơm gì đó đầy nhóc thịt cá. Ông thầy giáo mừng quá, gắp lia gắp lịa, ăn ngồm ngoàm không kịp thở. Ông chủ nhà thấy cười mới hỏi: -Ủa, ông thầy nói coi tàu hủ như là mạng sống, sao bữa nay lại không ăn? Ông thầy giáo trả lời: -Ừa, ừa, sao kỳ ghê, mỗi lần tôi thấy thịt cá thì quên mất mạng sống gì đó liền!
Kể xong nó cười hăng hắc, nắm tay tôi miệng hỏi:
-- Hay không, hay không?
Tôi cười khoái chí, miệng nói theo:
-- Thì anh cũng vậy, hễ thấy thịt cá là quên mạng sống liền!
Hai anh em xúm nhau mà cười, tôi giành lấy cuốn sách, thấy người họa sĩ vẽ thiệt khéo, ông thầy đồ mặc áo dài quấn khăn, cái miệng há hốc, cặp mắt tròn vo nhìn trân trân vô mâm cơm. Trong mâm thịt cá ê hề, khói bốc nghi ngút. Coi tới coi lui, tôi ngồi thừ người ra, một ý nghĩ mới lạ xuất hiện trong đầu. Câu chuyện thiệt tầm thường, ai cũng có thể nghĩ ra vậy mà ý lại thâm trầm hết sức.

Từ lâu tôi thường để ý con người dễ trở thành anh hùng trong gian khổ, nghèo hèn, chớ trong lúc phú quí giàu sang thì khó lắm. Bất cứ điều gì hễ có danh lợi xen vô thì dầu tốt cũng thành xấu. Như người Cộng sản họ có lý thuyết và chủ nghĩa để tôn thờ, họ xả thân chết sống vì lý tưởng Cộng sản, chiến đấu gian lao khổ cực, khắc phục muôn vàn khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nước không đủ uống, ánh sáng không đủ để nhìn, khí trời không đủ để thở những mong mai sau khi thành công đất nước độc lập thanh bình, toàn dân sẽ được hạnh phúc ấm no. Sách vở tiểu thuyết nào của họ cũng mô tả như vậy. Nhưng thực tế thì khác xa. Khi chiến tranh chấm dứt, dân chưa kịp thở ra nhẹ nhỏm mừng vui, thì họ như một bầy muỗi đói lẹ tay, chụp giựt bất kể tiếng oán than của dân lành ngút tận trời xanh. Nào tiền của, nào nhà đất, nào ngựa xe, nào gái đẹp, cán bộ đảng viên xây nhà, cướp xe, cưới vợ bé, bóc lột từ cây đinh, sợi chỉ, giàu sang xa xỉ trong sự rên xiết khóc than của toàn dân. Như ông thầy giáo trong chuyện miếng tàu hủ -- khi nhìn thấy bờ xôi ruộng mật béo bở của miền Nam, người Cộng sản quên mất lý tưởng họ tôn thờ rồi!

Mặt trời đã xuống thấp trên đầu ngọn cây xanh xanh ở tận chơn trời, ánh nắng thoi thóp chiếu thẳng vào khung cửa sổ hẹp những tia vàng nhạt le lói cuối ngày những hạt bụi nhỏ li ti bay ngang bay dọc. Có tiếng người ồn ào và tiếng bước chân lao xao trước cửa. Duyên, chị Điệp, chị Kiều và một đám con nít ùa vào như đám chợ:
-- Hai anh em nói chuyện gì mà cười ngả nghiêng ngả ngửa vậy?
-- Dân kể cho anh nghe chuyện ông thầy giáo ăn tàu hủ chiên. Hay lắm. Phải chi mấy chị em về sớm chút nữa thì được nghe rồi!
Rồi tôi hỏi tiếp:
-- Sao em, có gặp Hủ Tiếu hay Nhựt Bổn không? Có biết chừng nào ghe mình được phép?
Duyên chưa kịp trả lời thì chị Điệp đã vọt miệng:
-- Yên chí đi chú ơi, thế nào mình cũng đi được. Chắc lắm, qua đầu năm mới là mình đi đó. Bữa nay là hai mươi tháng Chạp, như vậy là chị em mình chờ chừng hai tuần nữa là lâu lắm!

Nghe chị nói tôi hơi mừng. Cả mười ngày nay chờ đợi mệt mỏi, tôi khá tuyệt vọng. Khi giã từ Bình Dương cứ tưởng xuống tới Bạc Liêu là lên ghe nhổ sào. Nhè đâu cứ kéo dài ngày nầy qua ngày kia, tôi cứ đi ra đi vô, chiếc ghe vẫn nằm ỳ trên bến. Hủ Tiếu vẫn hẹn lần hẹn lữa, nói quanh nói co. Tiền bạc đem theo để ăn đi đường đã cạn dần. Mấy bữa trước phải bán bớt mấy bộ quần áo, cái đồng hồ Seiko, rồi cắn răng mà bán tới nhẫn cưới... để chờ đợi! Phải làm sao nữa đây, nếu không đi được... tôi không can đảm nghĩ tới nữa.
-- Chị được tin ở đâu vậy? Việt Cộng với Trung cộng hết đánh với nhau rồi hả? Hà Nội sắp cấp giấy phép cho đi tiếp tục phải không?
Chị Điệp cười cười:
-- Mấy cái chuyện đó chị đâu có biết. Chị với Duyên vừa đi xin xăm ở chùa Ông Bổn. Mấy người ở đây họ nói xăm ở chùa nầy linh lắm, thành ra hai chị em lặn lội rán xin cho được. May quá chú ơi, xăm tốt lắm.
-- Trời đất! Tưởng là nghe được tin gì hấp dẫn. Mà xăm nói cái gì ở trỏng vậy chị?

Mấy bà ngồi bệt xuống sàn gạch, vây quanh tôi và Dân ‘gì đó’ Bà nào bà nấy mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng vì đi ngoài nắng quá lâu. Tháng nầy Bạc Liêu nắng như đổ lửa. Nắng nóng mùa Tết được gió biển thổi rào rào, nhà cửa, đường xá, ruộng đồng như muốn bốc ra thành hơi. Chị Điệp tay cầm lấy mấy mẫu giấy xăm đỏ chìa trước mặt tôi:
-- Chú thấy không, mấy cây xăm cây nào cũng ‘trung’ với ‘thượng’ hết nè. Ông Từ bàn xăm nói tốt lắm. Sự tích ông Tô Võ đi sứ qua đất Hung Nô rồi đối đáp làm sao đó hổng biết, bị đày đi Bắc tái chăn dê. Mà Bắc tái là gì vậy chú?
-- Ờ, ờ, Bắc tái là quan ải ở phương Bắc của xứ Hung Nô. Vậy là lạnh lắm chị Điệp ơi. Chỗ đó tuyết trắng quanh năm, đồng cỏ vàng khè, cây cối mọc không được, khổ lắm. Tôi định đi Úc mà, qua bển xin miếng đất làm ruộng. Sao xăm lại nói chị em mình đi miền Bắc?
-- Thôi kẹ nó chú. Lạnh nóng gì cũng được hết. Miễn có đi là chị mừng rồi.

Nói xong chị cười tươi rói. Hai má lúm đồng tiền. Chị Điệp là chị dâu thứ ba của tôi. Từ ngày anh ba tôi bị bắt rồi bị đưa đi Bắc lao động ở rừng sâu, chị lo lắng trong ngoài, nuôi nấng hai con nhỏ. Trung năm nay lên bảy và Dung mới lên năm. Hai đứa nó giống hịch anh tôi lúc còn nhỏ, nên mỗi lần nhìn thấy tụi nó là nhớ thương anh. Có lần anh tìm cách nhắn về nhà bảo chị phải tìm đủ mọi cách, dứt khoát đem hai con ra đi, đừng bận bịu chờ chồng nữa, đời anh kể như xong rồi. Anh đã viết một câu cho vợ, tôi nhớ hoài không quên: "...anh đã quyết định sai lầm, nên phải đánh đổi cả cuộc đời mình, em không nên chần chờ nữa, phải tìm đường lo tương lai cho hai con là anh yên lòng..."

Ngày làm giấy tờ giả, chị nhờ tôi chọn dùm một cái tên cho giống người Tàu, suy nghĩ hồi lâu tôi chọn là Trần Sùng Lìn. Chị thắc mắc cho là tên đọc lên nghe hơi xấu. Tôi phải giải nghĩa cho chị hiểu, đây là phiên âm, giọng Quảng Đông của chữ Trần Thuần Liên có nghĩa là đóa hoa sen tinh khiết vẹn toàn. Chị nghe xong chịu quá biên vô giấy liền. Từ đó cả ghe gọi chị là bà Sùng Lìn.
Duyên cầm lá xăm lật tới lật lui rồi chép miệng:
-- Mà ông thầy bàn là mình ở đó tới mười chín năm mới được về xứ. Ông Tô Võ đó khi về cầm cái cán cờ không, lá cờ lâu quá mục nát hết trơn.
Nghe vợ nói tôi thấy buồn cười:
-- Mình đi còn chưa được, ngồi chờ hoài muốn chết luôn hơi đâu mà lo tới chuyện mười chín, hai chục năm sau. Bây giờ chỉ cần biết bao giờ đi thôi.
-- Thì trong xăm nói rõ rồi. Ông Tô Võ không chăn bò chăn heo mà là chăn dê. Năm con dê là năm Mùi. Vậy là qua năm tới mình đi được, còn chừng mười ngày nữa là hết năm Ngọ, ăn Tết xong mình chuẩn bị là vừa.

Nói xong nàng ngồi thẳng người ra, xuôi hai chưn, tay cầm nón lá quạt phành phạch. Mấy chị em đều xin được xăm tốt, người nào người nấy hy vọng tràn trề. Tôi vẫn lộ vẻ phân vân thắc mắc không tin. Bỗng nhiên Duyên nắm lấy tay tôi lắc mạnh:
-- Nè, anh có nhớ cụ Diễn nói về tương lai của anh hồi trước không?
Nghe vợ nhắc tới, tôi hơi giựt mình. Cụ Diễn, cụ Diễn tôi nhớ ra rồi. Ông cụ người Bắc, mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ, áo dài nâu, khăn đóng đã bạc màu, nhà ở hẻm đường Hiền Vương trên một căn gác nhỏ, đã coi giúp tôi một lần lâu lắm, lúc đó tôi độ ba mươi, ba mươi mốt tuổi. Thời gian cũng chưa lâu nhưng nhiều biến động đất nước quá lớn cơ hồ tôi quên mất. Do một sự tình cờ tôi được một người bạn có quen với cụ, giới thiệu nhờ coi dùm tương lai. Buổi đó có chị Điệp cùng đi. Sau khi nhướng cặp mắt lèm nhèm nhìn một hồi, cụ nói từng điểm về cuộc đời tôi. Quả nhiên danh bất hư truyền. Cụ nói tới đâu, tôi rùng mình tới đó. Nhiều khi cứ nghi là anh bạn đã sơ ý nói hết về nhà cửa, gia thế nghề nghiệp của mình. Cuối cùng cụ phán một câu tôi nhớ hoài:
-- Tương lai của ông hở, ông nhớ nhé. Công danh như hoa lộ, phú quí thảo đầu phô. Ông học chữ nho, chắc hiểu rõ chứ gì. Lộ là giọt sương, giọt móc đấy. Đừng bao giờ cầu công danh phú quí gì cả không được đâu. Công danh thì như giọt sương đọng trên cánh hoa, phú quí trên đầu ngọn cỏ làm sao mà bền vững được. Ông nhớ lời tôi nhé, đừng bao giờ làm quan làm quyền gì hết, cũng đừng mong làm giàu, cứ đi dạy học an nhàn là tốt. Mà chưa chắc gì ông được dạy học trọn đời đâu. Ông mà lên chức, bất cứ chức gì sẽ gặp tai họa ngay đấy. Đến năm gần bốn mươi, ông sẽ bỏ xứ, mà đi một nơi xa lắm về phương Bắc. Ông mạng kim, về phương bắc thuộc hành thủy, ông phải vất vả hơn bây giờ nhiều lắm, lúc đó ông bỏ nghề dạy học... Ông phải cố gắng... tại cái số vất vả như vậy. Có một điểm tốt là đời ông không bao giờ gặp hiểm nguy tù tội. Chuyện gì khó khăn rồi cũng vượt qua. Không phải do tài sức của ông đâu, cứ bình thản để tự nhiên rồi khó khăn nó cũng tự giải quyết hết...
Khi tôi cám ơn từ giã ra về, ông nắm chặt tay tôi dặn dò:
-- Ông nhớ kỹ nhé, năm Ất Mão đừng đi đâu hết, đừng đi tàu thủy, đừng đi tàu bay, đừng ở khách sạn... nghĩa là phải hết sức cẩn thận, cẩn thận... vậy mà ông cũng không tránh được tai bay họa gởi, bị ngưng chức, bị cho nghỉ việc, lo buồn nhiều lắm! Như vậy cho đến năm Mùi, ông bắt đầu làm lại cuộc đời ở một phương xa. Lúc đó ông không còn làm thầy nữa mà là làm thợ... Ông nhớ kỹ nhé!

Lời ông cụ gần bảy, tám năm về trước, chiều nay lại văng vẳng bên tai. ông cụ già trên bảy mươi tuổi, da mặt nhăn nheo răn rúm, cái áo dài nâu đã bạc màu, cặp mắt nhỏ xíu nhìn không rõ vậy mà cụ đã thấy hết trơn tương lai của tôi. Phần nửa đầu đời cụ đã nói đúng phong phóc, còn phân nửa sau, tôi đang chờ để kiểm nghiệm.
-- Chị Điệp nè, hồi đó chị có nghe cụ Diễn coi cho em. Bây giờ chị nghiệm lại mấy lời ổng nói có đúng y như lời xăm không?
Chị Điệp đương uống ly nước lạnh vội để xuống:
-- Năm nay chú cũng gần bốn chục rồi, ổng nói chú bỏ xứ đi về phương bắc sinh sống. Tôi với chú đi một ghe. Mà xăm lại nói chuyện ông Tô Võ đi chăn dê ở ải Bắc. Vậy là giống nhau rồi.
Bỗng nhiên chị đập vào vai tôi một cái thiệt mạnh:
-- Thôi đúng rồi chú ơi! Tôi nhớ rõ ràng lúc ổng nói đi về phương bắc đó, chú dùng toàn đồ mới -- quần áo, xe cộ, nhà cửa gì cũng đổi mới. Mình đi vượt biên, mặc ba bộ đồ nầy chừng vài lần nữa là nó mục nát. Không mua đồ mới thì lấy gì mà bận, đúng quá phải không chú!
Rồi chị kết luận một cách ngon lành:
-- Vậy là thế nào mình cũng đi được!

Tôi thấy chuyện ăn khớp nhau có lớp có lang. Thiệt là hợp tình hợp lý hết sức, lòng mừng rơn. Đời tôi từ lâu rồi không do tôi quyết định nữa. Tính đằng nầy nó ra đằng kia, tính làm chuyện kia nó thành chuyện nọ, lông bông dật dờ, ba chìm bảy nổi. Không tin vào số mạng thì tin ai bây giờ? Có một cái nghề dạy học, thiệt là khiêm nhường hết sức, vậy mà cũng bị cho nghỉ một cách ngang xương. Công danh như hoa lộ, phú quí thảo đầu phô. Đi dạy học mà cũng được coi là tìm công danh phú quí? Mười chữ như một ám ảnh chập chờn trước mắt. Làm gì, nghĩ gì, tôi cũng giựt mình nhớ tới nó. Công danh, phú quí trên đời nầy có ai mà không ham. Nhưng hiện mình không đủ khả năng thôi đừng thèm nghĩ đến... Cái mà tôi nghĩ đến bây giờ, chiều nay, là chiếc BL 1648 hiện vẫn còn bỏ neo, nằm dật dờ trên bến nước Bạc Liêu!
***

Nằm trong mùng rộng thinh thinh tôi nhìn ra khung cửa sổ trên đầu. Trời đã chừng khuya lắm. Trên bầu trời đầy sao, mờ mờ hàng ngàn con dơi đen đủi bay dọc bay ngang kiếm mồi. Chúng tha hồ xòe đôi cánh rộng bay lượn thảnh thơi. Muỗi ở xứ nầy thừa mứa làm sao ăn cho hết. Đâu có ai cấm cản. Chắc chắn một điều mấy ngàn con dơi kia đâu cần phải có giấy hộ khẩu, thẻ cử tri. Chúng đâu cần phải có sổ y tế, sổ mua gạo, sổ mua nhu yếu phẩm. Chúng cũng đâu có phập phòng lo sợ đêm đêm Công an gõ cửa, ngày ngày lấm lét e dè người xung quanh đầu óc căng thẳng học thuộc lòng từng dòng của tờ khai lý lịch. Ôi, cái kiếp của con người dưới cái chế độ nầy thua cả những con dơi đen thui kia! Không thua sao được, sống mà không định được tương lai của mình như thế nào, phải cầu cứu đến xăm bà, xăm ông, tin tưởng mơ mơ hồ hồ vô những lời đoán trước chuyện chưa xảy ra để mà hy vọng khắc khoải. Y như người mù không gậy sờ soạng đi trong đêm, có ai đó giúp bằng cách đốt cho một ngọn đuốc để soi đường... Cuộc đời mâu thuẫn đến khôi hài như vậy, không đáng buồn sao!

Giấc ngủ đến chập chờn. Tôi thấy mình đang ở sau nhà chăm sóc mấy cây cải bẹ xanh. Cây nào cây nấy xanh biêng biếc, lá nở tròn lớn như cây quạt. Tay cầm lấy lon nước tôi tưới nhè nhẹ hết lá nầy tới lá kia. Tưới nhiều như vậy mà sao đất vẫn khô nen, nước chảy đâu mất tiêu hết. Tôi thắc mắc tự hỏi -- Sao kỳ vậy cà, lá cải bẹ xanh chớ đâu phải lá bạc hà mà nước trôi tuột đi. Mà sao nó không chảy xuống đất. Tôi tưới hoài, tưới hủy mà đất vẫn khô. Tôi ngó quanh ngó quất ra ngoài hàng rào. Có một cặp mắt trắng dã, trợn trừng nhìn tôi tưới cải. Tự dưng tim đập thình thịch. Nó đó, nó cứ theo hoài, từ ngày nầy sang ngày khác rình rập soi mói. Tôi có làm gì đâu, tôi tưới cải mà. Tôi rán nhớ coi trong mình có gì sai quấy? Tuyệt nhiên không, túi trên túi dưới không có giấy tờ gì phản động hết. Trong bóp có đủ cả thẻ cử tri, thẻ hộ khẩu, tờ khai lý lịch... nhưng mà, sao kỳ cục vậy nè, mấy tờ giấy đó không có đóng dấu với chữ ký tên. Ngay cả tên tuổi, ngày sang tháng đẻ cũng mờ nhạt. Tôi sợ quá, tay chưn quính quíu, lưỡi cứng đờ ra không nói được. Tôi cố quơ tay lên ra dấu để cho nó hiểu là lỗi không phải tại tôi, không phải tại tôi! Cái tay bữa nay sao nặng chình chịch, dở lên không nổi, cái miệng như bị khớp lại, quay hàm cứng ngắt ú ớ dãy dụa. Tai tôi nghe văng vẳng có tiếng người nói chuyện lao xao. Họ đông quá đứng lố nhố ngoài hàng rào, có người cầm đèn pin chiếu vào, ánh sáng lóe lên như lằn chớp. Tiếng người hô lớn... Tô Tỷ? Dạ có. Bành Thắng Niên? Có. Tô Phương Thoại! Có. Lâm Kiết? Có? Vương Sanh? Có. La Tống Thành? Có. Lâm Thoại Dân? Có... Tiếng gọi nghe khi xa khi gần...
--Trần Nguyên?
Không ai trả lời hết. Giọng hỏi gắt gỏng, vang lên ồm ồm:
-- Ai là Trần Nguyên? Công an xét nhà kiểm tra hộ khẩu. Anh nào là Trần Nguyên?
Tôi tỉnh giấc hẳn, nằm im lắng nghe, tim đập thình thịch vì sợ, cái lưng thẳng đờ dán chặt xuống sàn gạch. Chưn cẳng ngay đơ không dám nhúc nhích. Chết rồi, Công an Bạc Liêu đang xét giấy tờ. Mình lại là người đang trốn tránh. Giọng anh Công an trở nên cộc cằn:
-- Anh nào là Trần Nguyên? Sao tôi hỏi mấy lần không thấy ai trả lời?
Tôi nằm im vừa run, vừa bực mình, vừa tức. Thằng Tàu nào ngu quá, có cái tên mà không biết trả lời cho rồi, để tụi nó bực mình truy ra cả đám thì rắc rối. Trong nhà đa số là người Việt. Tim tôi đánh như trống làng. Tôi rán nín thở nằm im không dám cục cựa. Lúc đó tự nhiên bị Duyên nằm kế bên lấy tay khều mạnh vào ba sườn. Tôi giựt mình chợt nhớ ra cái tên mới đặt, quính quáng trả lời lắp bắp:
-- Tôi, tôi…
Thằng nhỏ Công an sừng sộ:
-- Sao tôi hỏi mấy lần anh không trả lời?
Duyên sợ tôi mê ngủ, nói năng bậy bạ, nàng vọt miệng đáp thay:
-- Ổng ngủ mê man có nghe gì đâu.
Một tia đèn sáng bén như ngọn kiếm loang loáng chiếu vô mặt, tôi bị lóe mắt, đưa tay che. Cũng may mặt tôi chắc cũng giống người Tàu, nên anh ta tiếp tục điểm danh:
-- Từ Phương Viên? Có. Trần Tiến Đạt? Có. Trần Sùng Lìn? Có... Tiếng hô chấm dứt, tiếng cửa đóng và tiếng bước chưn xa dần. Tôi thở một hơi dài, yên tâm nhẹ nhõm, đầu óc đủ bình tĩnh để nhớ lại mình bây giờ đã là người Tàu rồi, bán đồ nhựa ở số 86 đường Lương Nhữ Học, Chợ Lớn, có giấy tờ chứng minh rõ ràng, đầy đủ. Bên tai, tiếng vợ cằn nhằn:
-- Cái ông nầy nhớ trước quên sau, không có tôi ở kế bên rồi không biết ra sao nữa.
Có tiếng chó sủa dồn dập ồn ào, dài theo con đường dẫn vào xóm nhỏ, giữa đêm trường tĩnh mịch. Đêm đã chừng khuya lắm. Tôi ngủ thiếp lại, giấc ngủ mông lung, mộng mị chắp nối toàn chuyện dữ.

Võ Kỳ Điền

No comments: