Friday, March 28, 2008

ĐÁ HOA CƯƠNG



Cứ mỗi lần tiếng chuông reo vang báo hiệu giờ học bắt đầu, giáo sư lục tục kéo nhau xuống lớp thì tôi đều bước ngang qua cái bảng phân phối giờ dạy thật to gắn trên tường của phòng hội, liếc qua coi buổi sáng nay phụ trách lớp mấy. Nếu không vậy thì thế nào tôi cũng đi lộn vào lớp của giáo sư khác. Cái tật xấu hay nhớ trước quên sau đó, thường bị học trò cười hoài. Nhiều khi lớp của người ta đã ổn định, thầy đang điểm danh, tôi từ từ đi vô như là lớp của mình, quên mất là còn có anh bạn giáo sư đang ngồi lù lù ở trên bàn viết. Những lúc đó, đám học trò có dịp làm ồn:
-Lộn tiệm rồi, thầy ơi !
Cứ năm ba tuần là tôi đi lộn lớp một lần. Một phần vì tánh đãng trí hay quên, một phần vì cái trường Hoàng Diệu nầy quá lớn. Trường có trên năm chục lớp với gần một trăm giáo sư. Hành lang cái nào cái nấy dài hun hút. Phòng học, cửa cái, cửa sổ, sơn cùng màu, bàn ghế sắp xếp giống hịch nhau. Không lộn sao được! Có lần thằng Sơn, trưởng lớp Đệ Nhị A7 nhắc khéo:
-Lớp của tụi em có anh Quì ngồi ở đầu bàn. Hễ thấy cái lưng của ảnh, thầy đi vô là trúng phóc.
Thằng Sơn thiệt là xéo xắc. Quì thì làm sao tôi quên được. Ở đầu bàn, nghe Sơn nói, Quì cười gượng gạo. Tôi chợt hiểu ra cái ý xỏ xiên. Ở lớp nầy, Quì nổi tiếng nhiều mặt nhưng cái vụ mập mạp thì nó đoạt giải nhứt. Nó mới có mười bảy tuổi mà sao lớn con quá! Cái lưng dài sọc, cái vai to sầm, còn cái bụng chang bang như đàn bà có thai ba bốn tháng. Nếu đem cân kí lô thì tôi thua nó rõ ràng. Lúc đó tôi mới ra trường, ốm nhách, nhỏ xíu, đen thui. Tụi học trò ở tỉnh nầy, đứa nào đứa nấy tuổi còn nhỏ mà thân thể bự con, dềnh dàng. Có anh bạn bàn rằng vì chiến tranh loạn lạc, ở thôn quê khai sanh bị thất lạc, phải làm lại, người ta sửa tuổi cho nhỏ hơn để tiện việc học hành, quân dịch. Câu nói đó chắc đúng ở trường hợp thằng Quì. So với vóc dáng to lớn đó, tôi không tin nó mười bảy tuổi.
Có lần ngồi coi văn nghệ học sinh trình diễn, Quì đang hát trên bục cao, tôi quay qua ông hiệu trưởng nói nhỏ:
-Thằng Quì nó mới mười bảy tuổi mà sao bự quá!
-Anh nhắm coi nó cỡ bao nhiêu?
-Ít ra cũng hai chục!
Rồi tôi tiếp:
-Thằng Quì nó học hát hồi nào mà hay như ca sĩ chuyên nghiệp. Nó mà về Sài gòn thì thế nào cũng nổi tiếng như Anh Ngọc, Nhật Trường...
-Thì cũng nhờ hát hay nên trường mình mới nhận vô. Chớ nó thì học dở lắm.
Rồi ông cho tôi biết, năm trước Quì được nhận vào trường công không phải nhờ thi đậu, cũng không phải do học giỏi mà nhờ cái giọng ca đặc biệt. Nó học trường Trần Văn, một trường tư trong tỉnh. Nghe đâu nhà ở Cái Tắc, Chương Thiện gì đó. Nghèo lắm phải lên Sóc Trăng ăn đậu ở nhờ nhà một người quen để học. Năm ngoái các trường trong tỉnh có tổ chức một đại hội thi đua văn nghệ, Quì với giọng ca ấm áp, truyền cảm, ngọt ngào, đã chinh phục tất cả quan khách, thầy cô giáo, khiến cho mọi người có mặt hôm đó ngẩn ngơ. Tiếng vỗ tay không dứt. Nó đoạt giải dễ dàng. Trường Hoàng Diệu là trường công lớn nhứt tỉnh, không lẽ chịu thua trường tư. Anh em giáo sư bàn bạc với nhau vì nhu cầu sinh hoạt văn nghệ của trường, cần có một vài học sinh hát hay để làm nồng cốt cho các buổi trình diễn, nên cuối cùng Hội Đồng Giáo sư quyết định thâu nhận đặc biệt Quì vào trường. Thế là nó được học trường công nhờ cái tài năng thiên phú đó.
°°°
Riêng tôi, tôi biết Quì hơi trễ. Vài tuần sau khi tôi dạy lớp nó, tôi lật sổ điểm danh, cầm viết dò tên học trò từ trên xuống dưới. Đến tên Quì tôi thấy là lạ, bèn kêu lên để hỏi bài. Tôi nhìn xuống dưới các dãy bàn để coi đứa nào. Quí đứng lên phục phịch, để tập và sách giáo khoa lên bàn rồi khoanh tay chờ hỏi, dáng lo lắng. Tôi cười nhìn nó:
-Đứng vậy được rồi, đừng có khoanh tay. Lên trả bài, chớ bộ đi hầu quan lớn sao!
Tập vở nó sạch sẽ, chữ viết đẹp, nét đều đặn ngay thẳng. Tôi lật tìm bài đang kiểm soát trong sách giáo khoa. Khi lật trang đầu, tôi đọc thấy hai câu thơ viết nắn nót ở phía dưới cái tên Trần Văn Quì;
Nếu làm hoa làm hoa hướng dương
Nếu làm đá làm đá hoa cương
Hai câu ý rất lạ, làm tôi ngạc nhiên. Tôi nghĩ thoáng trong đầu. Nó tên Quì mà dùng hai câu nầy để tỏ bày chí hướng cao xa thì khéo quá _ hoa quì một dạ hướng dương. Nhưng trình độ một học sinh đệ tam thì làm sao viết hay được như vậy. Tôi nhìn kỹ lại khuôn mặt Quì cho rõ hơn. Mặt nó hơi thô vì bề ngang to hơn bề dọc, thành ra cái trán, cái mũi, cái càm ngắn ngủn. Hai gò má bầu bĩnh, đầy thịt, khiến khi cười cặp mắt híp lại. Bình thường cặp mắt nhỏ dài, ánh mắt lanh. Tóc mọc lấn hai bên thái dương nên cái trán hẹp lép. Nó chỉ được có cái miệng đẹp. Đôi môi mỏng, đều đặn hồng hồng, hàm răng trắng bóng đều đặn. Nhìn chung con người nó thô, vóc dáng cục mịch, không phải là tướng học trò. Tôi đoán rằng hai câu thơ trên không phải do nó nghĩ ra. Tuy thắc mắc nhưng tôi không tiện hỏi, trong bụng nghĩ rằng nó tình cờ đọc được ở đâu đó rồi chép lại.

Từ đó, tôi càng chú ý tới nó hơn. Quì rất ngoan ngoản, lễ phép, dễ thương, nói năng nhỏ nhẹ, tuy có điều học quá dở. Làm sao tôi quên được một buổi học về ca dao, tôi biểu nó đọc bài Trấn Thủ Lưu Đồn:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
-Em giải nghiã câu nầy ra văn xuôi cho tôi nghe!
Tôi thấy nó suy nghĩ hồi lâu, rồi mặt đỏ rần, miệng ấp úng:
-Dạ thưa thầy, khó nói quá!
Tôi ngạc nhiên:
-Em hiểu sao cứ nói vậy. Có trật tôi sửa cho.
Nó ngần ngừ lựa lời:
-Dạ, hai câu nầy theo em hiểu, thì ban ngày mấy người lính phải canh gác, coi chừng mấy cô gái làm cái nghề... bậy bạ, ban đêm thì tụ tập lại để làm quan! chắc họ hát bội cho vui !.
Tụi bạn nó ngồi ở dưới, ban đầu chưa hiểu tại sao nó lại giải nghiã như vậy, cả lớp lặng im. Bỗng có tiếng cười của một đứa, rồi hai đứa, rồi cả lớp xúm nhau cười rần rần. Đứa nầy lấy cùi chỏ thúc đứa kia, đứa kia lại ghé miệng vào tai giải nghiã cho đứa nọ hiểu. Tôi ngồi ở trên, rán nín cười mà không kìm lại được, đành làm bộ đứng dậy, quay mặt vào bảng đen, cười đến chảy nước mắt. Tội nghiệp, thằng Quì đứng đó, mặt bơ bơ. Nó không hiểu tại sao cả lớp lại cười lăn nghiêng lăn ngửa. Nó đưa mắt nhìn tôi dò hỏi.
Tôi từ từ giải nghiã cho nó:
-Em hiểu như vậy là sai rồi ! Chữ "điếm" trong bài nầy là cái trạm canh, bây giờ người ta gọi là cái đồn hay cái bót gác, chớ không phải là mấy cái cô gì... bậy bạ đó đâu! Còn "dồn việc quan" là người lính thú phải gánh vác tất cả các việc vất vả trong doanh trại, cũng như bị các quan trên sai khiến làm việc cực nhọc, không được nghỉ ngơi.
Nó vừa ngồi xuống, vừa cười vừa mắc cỡ, mặt mày đỏ lơ đỏ lưởng. Đại khái sự hiểu biết của Quì rất giới hạn. Quì cũng biết mình kém cỏi nên rất chịu khó học hỏi, nhún nhường. Được một điều, các sinh hoạt xã hội, văn nghệ là nó xung phong đi đầu. Nó hoạt động hăng say không biết mệt. bảy giờ sáng, năm giờ chiều, một hai giờ khuya, chỗ nào có đám đông là có mặt Quì. Bạn bè đứa nào cũng mến nó. Mấy cô bạn gái lúc nào cũng nhắc nhở tới tên nó luôn: -Anh Quì giúp em làm cái nầy_ Anh Quì giúp em làm cái kia. _Anh Quì hát cho em nghe cái bài gì hôm trước anh hát ở trong lớp đó !
Hình như chưa bao giờ Quì từ chối giúp ai điều gì. Nhiều khi nghĩ tới Quì, tôi ước ao phải chi nó học hành được khá thêm một chút thì hoàn hảo. Tôi có nói ý nghĩ nầy với ông Hiệu Trưởng. Ông ta cũng đồng ý với tôi. Anh Hiếu già, giáo sư Lý Hoá cũng góp ý:
-Chắc tại nó nghèo quá nên học không vô. Hay là mình xuất quỹ nhà trường để giúp thêm chút ít cho nó đủ tiền ăn học. Tiền bạc có thoải mái thì trí óc mới sáng suốt được. Thằng Quì cũng dễ thương, biết chịu khó...
Ông Hiệu Trưởng cũng đồng một ý nhưng theo nguyên tắc, không thể lấy tiền quỹ của Hiệu Đoàn để cho riêng một học sinh được. Chúng tôi bàn bàn nhau, mỗi tháng đóng góp người một ít để giúp cho Quì một số tiền nhỏ, phụ giúp nó các khoản ăn mặc, chi tiêu. Còn nhà ở thì dễ quá. Ông Tổng Giám Thị dọn dẹp cho nó một cái phòng trống cạnh kho chứa vật liệu cũ của trường. Có điện, có nước đầy đủ. Nó vừa ở học, vừa phụ với ông gác dan, coi sóc trường sở! Anh em giáo sư cũng hết lòng hướng dẫn nó học tập. Nhiều ngày chủ nhựt có dịp đi ngang trường, tôi thường thấy xe của Hiếu già đậu trước cửa phòng nó. Hiếu già rảnh rổi, ế vợ nên chưa có con, nhà cửa khá giả, lấy việc dạy học thêm cho Quì làm niềm vui. Anh thường khoe với tôi:
-Lúc nầy Quì học tiến bộ lắm đó. Làm bài không còn lụp chụp như trước nữõa đâu !
Tôi tin anh Hiếu già. Tôi tin Quì nó tiến bộ môn Lý Hoá. Nhưng môn Việt Văn của tôi thì Quì càng học càng dở, không khá được hơn chút nào! Tôi kiên nhẫn, tìm đủ mọi cách giải nghiã thật đơn giản cho Quì hiểu, nhưng rốt cuộc rồi hoài công vô ích. Chưa một bài luận nào của nó mà tôi cho trên năm điểm. Câu văn dài dòng, lê thê, không tìm thấy dấu chấm phết. Phần nhiều thì lạc đề ! Nó viết lan man trên trời dưới đất, không ăn nhập gì với đầu bài. Ý tưởng lộn xộn, lạ lùng. Xen vào đó là những danh từ rất đặc biệt, tôi ít khi nghe. Nhưng cái điều làm tôi bực mình nhứt là nó thường viết chữ " f " thay cho chữ "ph". Mỗi lần bắt gặp chữ nầy, tôi lấy viết đỏ khoanh tròn nhiều vòng, ghi lớn bên cạnh câu nhận xét "chữ quốc ngữ không bao giờ có mẫu tự nầy ". Nó nghe lời sửa chữa được vài lần nhưng sau đó thì chữ
" f " ngứa mắt nầy lại thấy nhan nhản trong các bài luận. Nhiều đêm chấm xong bài của nó, tôi tức phát mệt. Tuy vậy tôi cũng rán sửa từng chữ, từng câu hy vọng một ngày đẹp trời nào đó nó sẽ khá hơn. Nhưng ngày đó còn xa vời quá.

Cho đến một ngày gần cuối niên học, buổi trưa trời nắng gắt, tôi dạy xong ra khỏi lớp nhưng chưa về liền, đến ngồi ở băng đá, cạnh hồ nước có trồng sen thì Quì đến ngồi kế bên, tâm sự:
-Thầy ơi ! Sao nghĩ tới tương lai, em buồn quá!
Tôi ân cần hỏi lại:
-Em có gặp chuyện gì rắc rối không ? Có khó khăn gì cho tôi biết với !
Nó trả lời, giọng buồn buồn:
-Năm nay em tới tuổi quân dịch. Chuyện thi cử thì quá khó khăn đối với em. Làm sao mà thoát được kỳ nầy. Đi lính thì phải bỏ học. Lỡ dở hết...
Tôi an ủi nó bằng một câu thật tầm thường, không nói thì thiếu, mà nói ra thì hơi...dư:
-Em rán hết sức từ giờ đến khi thi, thì sẽ đậu được. Không có gì khó khăn lắm đâu. Đừng nản lòng. Tôi hồi nhỏ học còn dở hơn em nhiều lắm, lần hồi rồi cũng xong!
Khuôn mặt của Quì chiều hôm đó, ảm đạm quá. Tôi thương nó mà đành bất lực. Quì ngồi hồi lâu, khe khẻ nói:
-Chẳng thà em vô bưng, còn hơn đi lính quốc gia đánh mướn cho Mỹ !
Nghe xong tôi muốn á khẩu, lỗ tai lùng bùng. Trời đất ơi ! Thằng Quì ngoan ngoản, hiền lành, nó có được ý nghĩ kỳ lạ vậy sao? Trong đầu tôi, một tia sáng lóe ra. À, cái chữ " f " thường bắt gặp trong các bài luận văn với hai câu thơ lạ viết trên bìa sách giáo khoa của nó, bây giờ trở nên dễ hiểu quá. Rõ ràng có người hướng dẫn, dạy dỗ nó ngoài anh em giáo sư tụi tôi.
Nếu làm hoa làm hoa hướng dương
Nếu làm đá làm đá hoa cương
Thằng Quì muốn làm đá hoa cương. Được lắm! Thứ đá xanh cứng rắn nầy, người ta sẽ dùng búa thầu để đập nhỏ nó ra để lót đường đi. Rồi nó sẽ bị thứ xe hủ lô chủ nghiã nghiền nát, cán dẹp. Không kịp suy nghĩ, tôi buột miệng:
-Đừng, đừng, em sẽ đậu trong kỳ thi nầy. Còn nếu không may, thì em cũng đừng theo họ. Tôi không thích cái chủ nghiã coi con người như con vật nô lệ, tự động nhắm mắt tuân theo những định luật vật chất, kinh tế như cái răng trong một bánh xe, con ốc trong bộ máy. Con người phải được tự do trong tư tưởng, trong hành động...
Quì ngát lời tôi:
-Em thì không thích cái xã hội bất công, giàu nghèo xa cách quá. Thầy nghĩ thế nào khi thấy người thì lên xe xuống ngựa, kẻ thì cơm không có ăn, áo không có mặc !
-Tôi cũng đồng ý với em, chúng ta không thể chấp nhận sự bất công. Nhưng hiện tại đâu có nơi nào có sự công bằng tuyệt đối. Có thiên đường là nơi lý tưởng nhứt nhưng chỉ dành riêng cho người đã chết rồi ! Còn trên trái đất nầy thì chỉ có cái hạnh phúc tương đối thôi. Để so sánh hai chế độ, tôi nhắc cho em nhớ câu nói nầy của ông Churchill -"Chế độ tư bản bất công ở chỗ phân chia sự giàu có không đồng đều, còn chế độ cộng sản rất công bình vì nó chia rất đều sự nghèo đói "
Nó ngồi trầm ngâm hồi lâu:
-Thầy không biết mới nói vậy chớ trong đó có tới mười hai cái tự do, tám thứ quyền lợi. Mấy ảnh nói với em khi cách mạng thành công, mình sẽ được sung sướng lắm !
Tôi nghe xong, biết ý nó đã quyết, nhưng cố vớt vát:
-Em phải biết ở dưới miếng mồi thơm, luôn luôn có cái lưỡi câu thiệt bén! Đừng để bị dối gạt bằng những lời hứa hẹn mơ hồ...
Nó cắn chặt môi, mắt chớp chớp không nói. Tôi nắm lấy tay nó, thiết tha:
-Nếu ở trong lớp, tôi biết có đứa nào nghĩ như em vừa rồi thì không cản đâu! Riêng Quì, tôi coi như mấy đứa em ruột trong nhà, tôi thấy có bổn phận phải nhắc nhở. Nghe tôi nói, Quì ơi, đừng có dại dột phiêu lưu. Tuổi trẻ máu nóng lắm, phải suy nghĩ kỹ trước khi dấn thân. Kẹt vô rồi là ra không được. Cái gì mình sắp làm phải nghĩ tới hậu quả. Đừng để lỡ lầm rồi mới nói câu -" phải chi hồi đó ..."
Nó ngồi bất động, ánh mắt xa xôi, diệu vợi. Rồi nó cúi xuống, lượm một cục sỏi, chọi mạnh xuống mặt hồ, phủi tay đứng dậy:
-Cám ơn thầy thương mà chỉ dẫn, em sẽ nghe lời...
°°°
Cũng may mà thằng Quì không nghe theo tôi nên khi tôi gặp lại thì nó đang bắt đầu bước thẳng trên con đường tương lai sáng trưng. Mới có mấy năm xa cách, Quì thay đổi hẵn ra. Đầu đội nón tai bèo, chân mang dép râu, bên hông đeo khẩu súng ngắn, vai mang chiếc bóp da. Nó ngồi tại cái bàn của ông Hiệu Trưởng, thân thể có hơi ốm hơn lúc trước, cộng thêm nét dày dạn, đen đúa, phong sương. Duy cặp môi và ánh mắt thì khác nhiều. Cặp môi thâm hơn. Vẻ trưởng thành, già giặn hiện rõ trên khuôn mặt. Những ngày đầu tháng năm, biểu ngữ cờ sao đầy phố. Trường tôi cũng đỏ rực một màu cờ máu. Ông Hiệu Trưởng, vốn đã nhỏ con, bây giờ gầy tóp lại. Cái cà-vạt thường ngày không còn. Ông lại bỏ áo ra ngoài, chưn mang dép, coi cũng có vẻ giác ngộ cách mạng. Duy có Hiếu già, vẫn áo bỏ trong quần, chưn mang giày da, tay cầm cặp sách như lúc còn đi dạy. Mặt anh bình thản, không buồn không vui. Anh em chúng tôi, buổi sáng đó, đến ghi danh trình diện với Quì. Nó đại diện Ty đến tiếp thu trường sở. Ông Hiệu Trưởng kề tai tôi nói nhỏ như tự trấn tỉnh:
-Cũng may Quì nó đến tiếp thâu trường mình, người lạ thì mệt hơn. Dầu sao thì cũng là học trò cũ, anh em mình cũng không có làm gì bậy...
Quì thấy chúng tôi lục tục kéo đến, chạy ra chào hỏi niềm nỡ. Nó gật đầu chào tôi, thái độ cũng y như xưa:
-Em cũng có ý trông thầy nãy giờ. Lâu quá gặp lại mấy thầy, em mừng lắm. Không ngờ ngày nay đất nước lại độc lập, thanh bình. Thầy Điền hơi khá hơn lúc trước, còn thầy Hiếu thì y như xưa, không có gì thay đổi...
Tôi cảm thấy hơi yên tâm. Ông Hiệu Trưởng dè dặt:
-Anh Quì chỉ cho tôi biết cách thức làm sổ sách giấy tờ cho đúng cách...
-Thầy đừng lo. Sổ sách trường thì cũng đơn giản, không có gì khó khăn đâu. Để em làm cho mỗi thầy giấy trình diện để tiện việc đi lại
Anh bạn giáo sư nhạc, người đỡ đầu cho Quì ngày xưa, sung sướng hớn hở ra mặt. Anh coi cái vinh dự của Quì như của chính anh.. Anh khoa tay giửa đám đông giáo sư, nói bô bô:
-Hồi Mậu Thân, tôi xúi nó theo cách mạng đó. Phải nghe lời người ta theo "nguỵ " thì bây giờ chết ngắc rồi !
Anh nói trơn tru, gọn lỏn. Tay chống nạnh, mặt nghinh nghinh qua tôi. Tôi cảm thấy nhột quá. Anh ngó ngang ngó dọc, thấy Hiếu già quần áo chỉnh tề, đi dọc theo hành lang, vẫn từ tốn, chững chạc, anh lẩm bẩm cốt để Quì nghe:
-Mẹ, giờ nầy mà còn khệnh khạng, cái bịnh tiểu tư sản vẫn không chừa !
Quì nghe rõ nhưng không nói. Tôi không biết nó nghĩ gì trong đầu. Bảy năm không tiếp xúc làm sao tôi đoán được những đổi thay. Tôi nhìn lại cái bàn viết, cái tủ đựng hồ sơ, mấy cái ghế dành cho khách vẫn y chỗ cũ. Cái bản đồ Việt Nam vẫn treo trên tường. Cái cờ hiệu đoàn Hoàng Diệu ngày xưa tôi đặt thêu ở Sài Gòn vẫn còn đó. Duy có một sự thay đổi nhỏ. Ông Hiệu Trường đứng ở dưới, còn thằng Quì thì ngồi ở trên. Tôi đứng sau lưng ông Hiệu Trưởng nghĩ quẩn nghĩ quanh, sực nhớ tới câu nói của một chánh trị gia -"sau bất cứ một cuộc cách mạng nào chỉ có thành phần lãnh đạo thay đổi, còn nhân dân cũng hoàn là nhân dân". Như vậy ở trường Hoàng Diệu nầy, ai thuộc thành phần lãnh đạo ? Ai là nhân dân?
Tôi, Hiếu già, các bạn giáo sư nam nữ được sắp hạng ở cái chỗ nào ?
Còn chỗ nào nữa, tụi tôi đâu phải là nhân dân. Quì lại gần tôi:
-Thầy đừng có lo. Chánh sách bảy điểm của chánh phủ lâm thời đã ghi rõ ràng, người ta phải thi hành cho đúng. Hơn nữa, nếu gì thì còn có em. Hỗng lẽ em lại không giúp được cho mấy thầy chút ít gì sao !
Sau đó gần một tháng, quả nhiên Quì đã giúp cho anh em giáo sư chúng tôi. Nó khiêng dùm cho ông Hiệu Trưởng cái ba lô bự, tay xách thêm cái xắc tay dùm cho Hiếu già, đưa tụi tôi thẳng lên xe nhà binh để đến trại học tập. Nó nắm tay tôi từ giả:
-Thầy đi bình yên ! Học tạp một thời gian ngắn rồi về ! Ở trại đầy đủ tiện nghi, thầy đừng sợ thiếu thốn. Nếu có dịp, em sẽ đến thăm...
Nó móc túi trên túi dưới, cuối cùng lôi ra gói Vàm Cỏ còn phân nữa, nhét vào túi áo tôi, nói ngập ngừng:
-Thầy hút cho ấm khi đi đường... Tiếc quá, em chỉ có bấy nhiêu !
Tôi không biết hút thuốc nhưng vẫn lấy cho nó vui. Cái bao thuốc dẹp lép nằm trong tuí áo sát bên ngực, lòng tôi chừng ấm lại. Lúc xe gần chạy, chợt nhớ lại khung trường thân yêu tôi đã gần mười năm dạy ở đó, dặn vói với Quì:
-Ở trước thư viện, tôi mới trồng bốn cây bông điệp, mùa nắng nầy nếu không tưới, sợ nó khó sống, em nhớ dặn chú Cân nhớ chăm sóc, coi chừng dùm thầy...
Khi xe đã chạy, một anh sĩ quan ngồi bên cạnh nói với tôi:
-Thầy giáo lo xa quá, đất trống bây giờ dùng để trồng khoai lang, khoai mì, rau muống, ...còn chỗ nào mà trồng bông...
°°°
Thằng cha nói bậy vậy mà trúng quá. Sáu tháng sau, tôi được trở về với miếng giấy phóng thích nhỏ bằng bàn tay có ghi câu: " Không thời hạn quản chế " Phước đức ông bà mười đời còn sót lại. Số tôi còn hơi đo đỏ sau cuộc bể dâu. Tôi đi trên con đường từ nhà đến trường, thấy người ta đông như ngày hội. Thiên hạ túa ra đường để bán quần áo cũ, chén dĩa, giày dép. Tôi không tìm thấy nụ cười trên các gương mặt xanh xao, héo úa đó. Mặt tôi thì cũng không hơn gì, tàn tạ, thê lương. Trong đầu tôi nhớ đến Hoàng Diệu rõ nét. Cái cổng trường có giàn bông giấy, cái hồ nước trồng sen trước phòng ông Hiệu Trưởng, các dãy hành lang dài hun hút... và nhứt là Quì, cái phao hy vọng mà tôi sẽ phải bám vào.
Tôi gặp ngay chú Cân ngồi ở băng đá thảnh thơi. Sân trường được chia ra nhiều khoảng nhỏ trồng rau lang, trồng cải. Cái giàn bông giấy bây giờ là giàn mướp lá xác xơ. Ngôi trường vẫn như xưa nhưng có gì xa lạ quá.
-Thay đổi nhiều quá hả chú Cân ?
-Thầy có biết tin ông Hiệu Trưởng mình bây giờ ở đâu ?
-Khi đi tôi với thầy Hiếu ở chung trại. Ông Hiệu Trưởng được đưa đi nơi khác xa hơn, từ đó tới giờ không gặp nữa.
Tôi đi vào câu hỏi chánh;
-Quì làm việc có dễ chịu không chú Cân ? Sáng nay tôi muốn gặp nó có chút việc. Mới được về bỡ ngỡ quá, cái gì cũng xa lạ..
Chú Cân trố mắt nhìn tôi, ngạc nhiên:
-Thầy không biết gì sao ? Quì đã nghỉ việc, về Cái Tắc làm ruộng. Tội nghiệp anh Quì, tuổi trẻ nhưng đàng hoàng, có tình có nghiã. Nghe đâu không đủ bằng cấp để làm Hiệu Trưởng, Ty kêu về cho làm việc văn phòng, bị chèn ép hoài, nên buồn xin thôi. À, thầy có cần vô văn phòng gặp anh Chuyên, Hiệu Trưởng mới không ? Ông nầy ở ngoài Bắc vô, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Thanh Hoá, mười mấy tuổi đảng rồi đó !
Sau màn giới thiệu lý lịch xếp mới, chú chép miệng:
-Gốc mạnh lắm, em ruột anh Hồng, Trưởng Ty mà...
Tôi lắc đầu, từ giả chú Cân, đưa mắt nhìn lướt qua sân trường lần cuối. Mấy cây bông điệp trước thư viện có được vài lá non nhưng èo uột quá. tôi tự hỏi chừng nào nó mới trổ bông. Tôi thèm thấy những cánh hoa đỏ rực trên cành vào những mùa bãi trường. Cái ước ao có chú xíu đó mà cũng không đạt được. Chắc là vĩnh viễn tôi không thể đi dạy lại. Quì nó cách mạng như vậy còn bị bỏ rơi, huống chi tôi. Cũng may là còn đầy đủ đầu, mình, tay chưn mà về cày ruộng ở Chương Thiện. Trong khi đó hằng triệïu, triệu thằng Quì khác đã phơi xương trắng hếu ở dọc Trường Sơn, ở rải rác khắp nơi trên đất nước...
Tôi miên man nhớ đến những đêm văn nghệ học sinh, Quì mập mạp với giọng ca nồng nàn. Tôi nhớ đến hai câu thơ nó đã viết trong cuốn sách giáo khoa. Tôi muốn gặp lại nó không phải để nói chuyện văn chương chữ nghiã như kiểu "Ba năm trấn thủ lưu đồn " mà là nói với nó một chân lý tầm thường nhứt:
-Quì ơi " Em đừng có buồn ! Đừng mong làm hoa hướng dương, suốt ngày ngước nhìn mặt trời hoài, mỏi cổ lắm. Cũng đừng thèm làm đá xanh cứ phải lót đường cho người ta đi. Em phải nhớ một điều, vì lý tưởng cao cả, chúng ta có thể chấp nhận hy sinh thân xác để bón lúa, chớ đừng bao giờ dùng nó để làm phân bón cho thứ cỏ dại sinh sôi nẩy nở. Em là người có lòng đối với đất nước, hãy giữ vững niềm tin, đừng để lầm lạc lần nữa trong đời. Ngày nào toàn dân đứng lên phát cỏ dại, hy vọng lúc đó thầy trò mình sẽ có mặt ở tuyến đầu, nhớ nghe Quì !

Saturday, March 22, 2008

Câu Chuyện Ngày Xưa



Buổi sáng hôm đó, tôi và người bạn thân đến nhà cụ Diễn trên một gác nhỏ, trong hẽm đường Hiền Vương. Tôi đang rảnh, Thâu cũng vậy, hai đứa đi loanh quanh trên đường phố Sài Gòn quen thuộc, đã mõi cha^n nên khi ăn uống xong xuôi, Thâu chợt đề nghị coi bói cho biết tương lai. Nghe tới tên cụ Diễn là tôi chịu liền, từ lâu hằng nghe đại danh cụ và ước ao được gặp. Tôi đâu ngờ Thâu lại là chỗ thân tình với cụ và có thể nhờ coi dùm (mà không phải trả tiền và hình như cụ cũng không lấy tiền của khách, tôi không biết rõ lắm việc nầy)

Lúc đó tôi còn trẻ lắm, sống ở tỉnh nhỏ, chuyện hôn nhân cứ trở ngại, trục trặc hoài. Có cái chuyện dễ dàng như vậy mà làm cũng không xong, cả tỉnh bạn bè nay đứa nầy mai đứa kia, cưới vợ lấy chồng từ từ hết trơn, thấy mà tức ứa gan... Do hôn nhân trễ muộn tôi đâm giựt mình, như một nhà xã hội và tâm lý gia, tôi tự tìm hiểu cá nhân, gia đình, xã hội, kinh tế, tâm lý,… và cuối cùng đổ thừa cho là tại cái nầy, tại cái kia và tìm những khuyết điểm của mình, tự trách cứ. Lúc đó do công cuộc làm ăn, tôi thường liên lạc với Thâu. Thâu nghe tôi kể lể tâm sự, phản đối liền – bạn nói tầm bậy hết trơn rồi, không phải tại cái gì cả mà tại cái số mạng, cái số ế vợ,… nếu đúng như mấy lý do kinh tế, tài chánh, gia đình gì gì đó, tại sao có nhiều thằng xấu trai, học kém, nhà nghèo, nhút nhát, nghiã là đủ thứ dở tệ… tại sao cũng có vợ được, tại sao?
Cuối cùng Thâu kết luận - xe hơi còn có số mà, nói chi người ta. Mà muốn biết số mạng ra sao thì bạn phải theo tôi qua kiếm cụ Diễn, thần tướng, hiện nhà ở bên kia đường...

Nhà cụ Diễn trên một căn gác nhỏ, trong hẽm đường Hiền Vương nhiều cây to bóng mát. Bên trong nhà không khi mát mẻ, bàn ghế đồ đạc bày biện theo kiểu xưa, cổ, có nhiều bức tranh Tàu treo dọc theo tường. Lúc đó cụ đang bận tiếp khách. Vài ông khách ăn mặt âu phục, complet, cà vạt chỉnh tề, ngồi đứng chào hỏi dáng vẻ cung kính, khiến tôi đâm e ngại.

Cụ Diễn là một ông già người Bắc tuổi chừng độ trên dưới bảy mươi, người ốm yếu, mong manh, khăn đóng bạc màu, áo dài mỏng bằng the đen. Rõ ràng là một nhà nho nghèo lở vận, ẩn dật, sống an bần lạc đạo trong cái không khí ồn ào, rộn rịp của cái đất Sài Gòn văn minh với chiến cuộc đang leo thang từng ngày… Trong lúc ngồi chờ đợi, tôi quan sát con người và cử chỉ thái độ cụ. Cặp mắt quá nhỏ so với khung mặt, có lẽ vì tuổi già, thân hình như gầy tóp lại. Dầu cụï không đeo kiếng nhưng tôi vẫn không thấy được tròng mắt lớn hay nhỏ. Hai mí mắt đã cố nhướng cho xa nhau nhưng độ hở vẫn chỉ to hơn sợi len giăng ngang chút xíu. Tuy lem nhem như vậy hình như cụ đã thấy hết trơn đời tôi. Sau khi đi qua lại vài bước cho cụ coi tướng, câu đầu tiên cụ nói như vầy : -số ông suốt đời ở chợ.

Tôi dạ cám ơn và thấy cười trong bụng- ông thầy nầy ai cũng khen phục tài giỏi nhưng nói một câu hổng giỏi chút nào. Sáng hôm đó, tôi ăn mặc bảnh bao, đầu tóc mới hớt gọn ghẽ, lại đi chơi với dược sĩ Thâu, rể ông đại sứ nổi tiếng, hổng lẽ tôi lại ở nơi thôn quê. Nói như vậy thì ai cũng có thể nói được. Nhưng tôi cố nhớ lại coi hồi nhỏ tôi có ở nhà quê hay không, quả là không có. Tôi được sanh ra tại đảo Phú Quốc, cái đảo nhỏ xíu như một thôn xóm nghèo, tuy vậy nhà tôi cũng ở ngay tại chợ, thị trấn Dương Đông. Rồi nhà được dọn vài ba lần, lần nào cũng vậy, mở cửa ra là thấy chợ ở ngay trước mắt. Tôi kiên nhẫn chờ nghe tiếp .
-năm ngoái ông bị đụng xe, may là không nguy hiểm tới tính mạng.

Tôi chợt nhìn xuống khuỷu tay, vết thẹo còn lộ đỏ sau một lần té xe rất nguy hiểm từ trên dốc Lò Chén. À thì ra, ổng nhìn thấy vết trầy nầy, bận áo tay ngắn, cái thẹo chần dần như vậy, ai mà không thấy.
-Dạ, dạ, cụ nói đúng, năm ngoài tôi bị nặng lắm, xém chút nữa là nguy rồi, nhờ phước đức ông bà....
-tuy nhà ông ở ngay tại chợ nhưng sau nhà lại có vườn cây.

Trời đất ! mới nhìn có tôi có chút xíu mà nói được cái vườn sau nhà, cũng lạ. Sách tướng tôi cũng đã từng đọc qua vài cuốn, có chương nào chỉ cách nhìn mặt mũi tay chưn mà tả được cảnh vật trước hoặc sau nhà? Bỡi chi tiết nầy khó thể có được. Miền Nam mình, tỉnh nào cũng vậy, đường đất phố xá nhỏ hẹp, nhứt là phố chợ, đất dư tính từng tất, dành để buôn bán làm ăn, chỗ nhiều đâu mà trồng cây ăn trái… Tôi thấy quả ông cụ có tài lạ, tuy vậy chuyện cái nhà, cái vườn có gì quan trọng, nói tới nói lui làm chi ?
-nếu ông không ở trong căn nhà như vậy, thì đã nguy hiểm tới tính mệnh.

Tôi ngồi im, chuyện nầy cũng không biết ra sao nữa, khoa phong thủy địa lý dương trạch có nhiều điều không thể nghĩ bàn. Ông cụ vẫn bình thản, không cần hỏi tới năm tháng ngày giờ sanh, miệng vẫn nói đều đều, thong thả :
-hiện tại ông làm nghề dạy học, dự định đổi đi nơi khác, lần đầu không được lần sau sẽ được…
Tôi giật nẩy người, đầy mình mọc gai óc. Làm sao ông cụ biết tôi làm nghề dạy học, chỉ bao nhiêu đó thôi quả là tay cao thủ. Tôi vừa ở quân trường ra, sau ba tháng thụ huấn quân sự, tóc hớt ngắn, da đen thui, tay chưn còn dính đầy nắng gió. Năm Mậu Thân cuộc chiến tàn khốc, hầu hết thanh niên cở tôi đều vào quân đội. Nếu nhìn dáng vẻ bên ngoài mà đoán tôi là sĩ quan thì dễ đúng hơn. Đâu có nét nào giống thầy giáo. Rồi làm sao biết được tôi đang xin đổi nhiệm sở, hồ sơ hiện bị trở ngại. Chắc bạn mình đã nói lỡ nói trước với ông già nầy hết trơn rồi, tôi liếc qua Thâu. Thâu tỉnh rụi, thấy ông cụ nói không điểm nào trật, khoái chí ngồi cười cười… Rồi lại suy nghĩ, ổng coi cho mình, tốn công tốn sức, có lấy đồng xu cắc bạc nào, nói gạt, nói dối làm chi.

Lời nói cụ đều đều, thong thả, chuyện quá khứ, chuyện tương lai, công danh, khoa bảng, tiền của, sự nghiệp, bạn bè, tai nạn, bịnh hoạn… sẽ như thế nầy, thế kia, tôi vâng dạ liền miệng. Có đoạn ông cụ nói năm gần bốn mươi tuổi tôi sẽ sống ở nước ngoài, một xứ phương Bắc rất lạnh và xài tiền bằng Mỹ Kim, tôi đâm tức cười, không biết là ông còn thức hay đã ngủ, nói mê…

Nhưng mấy cái chuyện xa vời đó có quan trọng gì tới tôi đâu, cái mà tôi đang chờ để biết là chuyện gia đạo tình duyên mà, nóng ruột hết sức, tôi rụt rè ngắt lời :
-Dạ, dạ, nhờ cụ coi dùm chuyện gia đạo vợ con ra sao, hiện tại tôi còn.. một mình.
Ông cụ nhướng cặp mắt tí xíu lên, nói rõ ràng như thấy cô vợ tương lai của tôi trước mặt :
-người vợ tương lai của ông, học hành như thế nầy, gia thế, nhà cửa thế nầy.., cùng nghề nghiệp với ông.
-dạ thưa cụ, theo như cụ nói thì không dám đâu. Tôi ở tỉnh nhỏ, học ít, chỉ muốn tìm người trẻ tuổi và học kém hơn một chút ..

Ông cụ không trả lời, mắt hình như nhắm lại. Tôi nhớ lại từ đầu buổi cho tới giờ, chuyện quá khứ thì rất đúng nhưng không có gì đặc biệt, tôi ở trong nhà nầy hay nhà kia, làm thầy giáo hay sĩ quan thì cũng vậy, còn chuyện tương lai thì chưa biết ra sao. Duy chuyện vợ con thì hơi lạ, tôi nghĩ là ông cụ nói trật vì hồi nào tới giờ chưa bao giờ tôi để ý tới bạn gái đồng nghiệp. Tôi vốn rất sợ cô giáo và những người đàn bà thông minh, học giỏi hơn mình...
-Thưa cụ, xin cụ cho biết chừng nào tôi mới cưới được vợ ?
Ông cụ không trả lời ngay câu hỏi, chợt mở mắt ra, phán cho một câu dứt khoát, khiến tôi sửng sốt như bị tạt một gáo nước lạnh :
-đám cưới ông hầu như không có.

Trời đất, thiệt vậy sao? Thiệt vậy sao, tôi nghe lỗ tai lùng bùng. Chuyện cưới vợ đã trầy vi tróc vảy, rồi tại sao sẽ gặp một cô giáo nghiêm trang… rồi lại không có đám cưới. Hàng trăm câu hỏi tại sao, tại sao trong đầu. Tôi cảm thấy mồ hôi rịn ra đầy mặt. Sao kỳ cục vậy, căn cứ vào đâu mà cụ dám nói như vậy. Tôi nhìn thẳng vào mặt, thấy cụ vẫn bình thản, cụ nói thiệt tình mà đâu phải nói chơi.

Tôi hỏi tiếp, giọng hơi khó chịu ...
-dạ thưa cụ, tại sao lại không có đám cưới, có phải tôi không đủ tiền cưới vợ ?
-không phải, nhà ông thiếu gì tiền.
-vậy tại sao, nếu có đủ tiền tại sao tôi lại không làm đám cưới. Thú thật với cụ, tôi mà thương ai, dù người đó mang bầu hay có con rồi, tôi cũng sẽ làm đám cưới chánh thức, đàng hoàng. Tại sao tôi lại sợ dư luận mà không làm đám cưới, lại dắt con người ta đi không…

Khi nói đến đây, tôi nhớ lại giai đoạn đó ở tỉnh nhà, bạn bè nhiều lắm, đứa nào cưới vợ tôi đều sẵn lòng giúp đỡ. Vừa cho mượn xe, vừa làm tài xế, vừa làm rể phụ, hổng lẽ tới đám cưới mình, không ai tham dự. Ngày cưới tôi phải vui vẻ và đông đảo bạn bè thân tình chớ. Ông cụ chấm dứt bằng lời nói giận dỗi:
-cái mặt ông làm gì dám dắt ai …
Rõ ràng là ông cụ nói nhiều điều vô lý, tôi không còn kiên nhẫn ngồi nghe tiếp nữa, đâm ra vô phép, đứng dậy và nói giọng hờn mát :
-tôi không dám dắt ai, tôi lại có tiền, vậy hỏi cụ, tại sao lại không làm đám cưới cho vui. Tại sao tôi không làm…

Ông cụ không trả lời, khoát tay đuổi tôi và Thâu ra cửa. Tôi cúi đầu cám ơn từ giả cho có lệ, rồi đi thẳng, bụng không vui. Giửa trưa nắng thiệt nóng và xe cộ ồn ào, mùi khói xăng khét lẹt, trong phút chốc những lời tiên đoán của cụ già bay mất tiêu hết, tôi không còn muốn nhớ nữa. Trật lất rồi, nhớ nữa làm chi. Ngồi trên xe, Thâu phân trần:
-bạn biết không, mấy ông hồi nảy toàn là Bộ Trưởng hay Tổng Giám Đốc gì đó. Ông cụ là thầy tướng riêng cho Tổng Thống với Thủ Tướng, nhưng bửa nay sao ổng nói trật tới trật lui, tôi cũng thấy kỳ cục, nhiều việc không đúng, chắc ổng bịnh hoạn hay đương lo việc gì đó, nhớ trước quên sau…

Tôi bộp chộp kết luận một câu ngon lành :
-Thâu nè, bạn tin tôi đi, không bao giờ tôi cưới cô giáo hết và sẽ làm đám cưới thiệt lớn để rủ bạn bè nhậu một bửa cho vui. Đời người chỉ có một lần cưới vợ, tại sao lại không làm, không lớn thì nhỏ chớ, tại sao lại im ru bà rù… Tôi tin đời có định mạng nhưng cũng tin con người có tự do.
*
Và tôi có tự do thiệt tình khi làm quen với D, không bị ai ép buộc cả. Sau ngày đám hỏi, tôi xuống Sài Gòn đến gặp ông già vợ tương lai. Ông trẻ hơn ba tôi nhiều. Cũng vậy, vợ tôi nhỏ tuổi hơn tôi nhiều lắm. Những gì cụ Diễn nói về nàng đều đúng, không trật một điểm nào. Cho đến bây giờ tôi cũng không biết tại sao tôi lại liều gan kết hôn với một cô giáo, từ nào tới giờ tôi vốn kỵ mà. Tôi có kinh nghiệm về việc nầy, mấy thằng bạn tôi có vợ cô giáo, một thời gian sau đều trở thành học trò ngoan ngoản các cô hết trơn. Dầu biết rất rõ nhưng giờ đây tôi cũng tình nguyện làm y như vậy. Đúng là số mạng, chạy trời không khỏi nắng.

Hôm đó là những ngày sau Tết, nhà nàng còn chưng đầy bông hoa. Cái bình sứ cổ đời Khang Hy thật lớn dùng cắm cành mai to bằng cổ tay cao tận nóc nhà. Tôi nhìn sững những câu thơ ngoằn ngoèo nét thảo lòi tói và buộc miệng - cái bình nầy quí lắm đầy rạn da qui, ba dùng như vầy rủi ro nó bể thì sao. Ông già vợ tương lai cười, -làm sao bể được con, ba chưng như vậy cả chục năm nay rồi, có sao đâu. Mấy đứa em vợ bu quanh chờ ông anh rể quí chở đi ăn mì. Cả nhà quây quần ấm áp, tiếng nhạc vang vang đầy nhà. Nhà sắp có đám cưới mà, không vui sao được.

Ông già lắng nghe giọng Khánh Ly trầm ấm vang lên từ chiếc máy nhạc, tự nhiên quay qua tôi -nè nè, con nghe nè, mấy ông văn nghệ sĩ nói chuyện, viết lách thiệt là hay, cái gì mà… giọt nước mắt rơi thành hồ nước long lanh... Câu nói chưa hết, D. lại xí xọn xen vô -bản nầy là Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn đó ba.

Ông vừøa cầm ly rượu sóng sánh màu hổ phách, vừa lẩm bẩm - Như cánh vạc bay, à, à cánh vạc bay ra làm sao, tượng trưng cho cái gì, thiệt tình ba không hiểu. Rồi khóc mà tới thành hồ nước long lanh - thì thiệt là viết khéo hết sức, viết được tới như vậy thì trên đời hổng có mấy tay. Rồi ông ta bàn tiếp -con nghĩ coi giọt nước mắt có chút xíu, mà làm đầy cả hồ nước là phải khóc nhiều lắm đó nghen...

Tôi ngạc nhiên, ông là tay buôn bán già đời, suốt ngày chỉ thấy cộng trừ nhân chia, tại sao không chịu nói chuyện tiền bạc, nhà đất, của cải, tự nhiên hôm nay sao lại nổi hứng bàn chuyện thơ văn, nghĩ cũng lạ. Bất ngờ ông hỏi tôi, giọng ngọt ngào :
–Nè nè, ba nghe nói con dạy văn chương. Vậy có bao giờ con viết văn hay làm thơ gì không ?

Tôi còn đang giai đoạn ở rể, phải cố gắng lấy điểm để làm vừa lòng ông già vợ. Câu hỏi khiến tôi giựt mình –như vậy là ông ta khen hay chê Trịnh Công Sơn ? Câu trả lời tôi phải như thế nào cho đúng. Trời đất ơi, nhằm cái lúc vui vẻ nầy mà vợ tôi lại cho hát cái bản nhạc mắc dịch đó làm chi. Câu hỏi ngọt ngào như viên thuốc bọc đường có phải là viên thuốc độc ? Tôi phải trả lời sao cho vừa ý ông đây ?

Hồi nào tới giờ quả tình là tôi không biết viết văn hay làm thơ. Nhưng nếu cần nói láo để được vợ thì tôi cũng phải liều gan nói đại. Nhưng mà, câu hỏi độc địa nầy hình như có liên quan tới cái ý nói láo đó. Khóc mà tới đầy cả hồ nước thì là nói láo rõ ràng, ai ai cũng thấy. Nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ra như vậy và cả nước coi nhạc sĩ nầy là thiên tài, nhạc ông vang rền ngập từ chợ đến quê, ban ngày cũng như ban đêm… Nhưng nói láo nhận mình là văn nghệ sĩ thì khác, không giống kiểu nói láo trong thơ văn…

Tôi còn đang ấp úng tìm câu trả lời thì may quá, bà già vợ đi đâu sợt sợt trở về, thấy tôi bà nói một hơi không kịp thở :
-con về trình lại với anh chị ở trển, ba má đã về Dĩ An nhờ thầy coi ngày cưới rồi . Ông thầy nầy ngày xưa coi cho ba má đó, coi kỹ lắm, ổng tìm được ngày tháng đại lợi, tụi con sẽ ăn đời ở kiếp với nhau, giàu sang phú quí, tử hiếu tôn hiền….
Nói xong bà lục trong túi đưa cho tôi tờ giấy đỏ, đầy chữ viết run rẩy của một cụ già, nghe đâu đã trên chín chục. Rõ ràng là ông thầy Dĩ An coi ngày cưới hỏi thiệt hay, thời gian đã chứng minh được tài năng của ông. Ông bà nhạc gia tôi sống chung nhau cho tới bây giờ, tiền bạc nhà cửa sung túc, con cháu đầy đàn, chưa hề biết đến chuyện ly dị khổ tâm, đau đớn ra làm sao.

Tôi cầm lấy tờ giấy coi ngày cưới, thời gian còn lâu tới bốn năm tháng nữa, hơi bực mình nhưng nhớ lời dặn dò của ba tôi – theo tao ngày nào cũng tốt hết, ổng bả muốn trễ sớm lúc nào cũng được, miễn mầy cưới được vợ thì thôi, lần nầy mà mầy kiếm chuyện để cho trục trặc nữa là kể như suốt đời không có vợ đó con. Tôi đã thấm thía chuyện hôn nhân trễ muộn mà cũng đâu cần ba tôi dặn, năm nay tôi đã ba muơi lăm tuổi rồi, tôi đâu còn ngu mà cà khịa, giận lẫy, kiếm chuyện kiểu con nít như hồi mười tám, hai mươi…

D. đưa cho tôi cục kẹo, tôi ngậm vào miệng, cắn nhẹ thấy có rượu mạnh bên trong. Cuộc đời quả cũng có ngọt ngào, tuy rượu ít nhưng cũng khiến tôi ngây ngất. Đường Trần Hưng Đạo trước nhà, nắng sáng trong, xe chảy thành dòng. Nhớ tới lời tiên đoán cụ Diễn ngày nào - đám cưới ông hầu như không có ! Tôi bật cười. Cụ ơi, đám cưới tôi hã, chắc chắn sẽ rất vui, đông đủ bạn bè, bà con thân thuộc hai bên, làm sao không có, làm sao mà nhỏ cho được. Nội bên vợ, anh chị em D. nếu đếm sơ sơ cũng đủ một chục đủ đầu rồi, nói chi bên gia đình tôi, nội ngoại, sui gia, dâu rể… rồi tới hàng xóm láng giềng, toàn người thân tình ơn nghiã, đâu thể nào không mời người ta đến chung vui.
*
Sau ngày 30 tháng 4, tôi len lỏi trong đám đông hỗn loạn ngơ ngác, xác xơ, tìm đường xuống Sài Gòn, đến nhà vợ chưa cưới. Vừa gặp tôi, D. ôm chầm lấy và mừng rỡ. Trong cơn biến động mấy ngày qua, chuyện liên lạc khó khăn gián đoạn, nàng tưởng là tôi đã thoát ra khỏi quê hương và đành đoạn bỏ nàng lại một mình, đi biệt tích. Tôi không biết nên cười hay nên khóc. Tôi trình bày cho ông bà già vợ chuyện tang thương dâu bể xảy ra trên nhà tôi, tất cả những dự định tương lai đầy màu hồng ngày nào trở thành xám đen, tan nát hết. Ba vợ tôi an ủi :
-con đừng bi quan quá, dù gì đất nước mình cũng không còn chiến tranh, mọi sự rồi sẽ ổn định. Lúc đó mình buôn bán làm ăn trở lại…

Trời đất, chế độ nầy mà ổng còn hy vọng buôn bán làm ăn như xưa! Mọi sự sẽ ổn định, đúng rồi, đống máy cày của ổng đâu còn chưng bày ra ngoài hành lang như lúc trước, mà đem giấu tận phía sau nhà. Chị em D. ngày nào quần là áo lụa, trang điểm kỹ lưỡng từ đầu đến chưn, nay cũng bắt chước mặc bộ bà ba đen giống như mấy cô thôn nữ chỉ thiếu chiếc khăn rằn vắt trên vai. Mấy đứa em trai ngồi im lìm, không còn chạy giởn la hét vang rân như ngày trước.
-thưa ba má, nhà cửa, công danh, sự nghiệp, tiền bạc bây giờ kể như mất mát hết rồi, ngay cả thân mạng con cũng không còn biết ra sao. Bửa nay con xuống thưa với ba má là chuyện hôn nhân của con và D. phải hoãn lại… cho tới chừng nào, chừng nào… con cũng không biết nữa. Cũng có thể là không bao giờ.
Nói tới đây tôi nghe D. khóc rấm rứt, rồi không cầm được nước mắt, tôi cũng khóc theo. Bà già vợ tôi cũng thúc thít nhưng còn rán nói :
-đâu được con, đám cưới tụi con không làm lớn được thì mình làm nhỏ, vợ chồng phải có cưới hỏi đàng hoàng chớ con !
Hoàn cảnh đất nước quê hương hổn loạn, tang tóc như vậy mà làm đám cưới, dù làm nhỏ thế nào đi nữa, dù cố gắng cho lắm cũng không thể làm được, mà coi cũng không được. Tôi trả lời ngay :
-Thưa má, con không biết bị bắt ngày nào, bây giờ chỉ còn lo chuyện chết sống, tù đày, sống chỉ biết được ngày nay, không biết ngày mai ra sao, còn đầu óc đâu mà nghĩ tới chuyện gia đình riêng tư nữa.
Tôi tiếp - chế độ nầy sắt máu lắm, chuyện vui không có mà chuyện buồn thì nhiều, con nghĩ là mọi sự bế tắc, miền Nam mình thua trận rồi. Mà quả vậy, đầu óc tôi lúc đó đặc sệt như chì, không tìm ra giải pháp nào ổn thoả hết. Đi không được, ở không được, sống không được mà chết cũng không được luôn. Tôi có cảm giác thua cuộc, bất lực, thất bại, tê liệt như con kiến bò trên bờ chảo nóng, lanh quanh bò hoài cũng không ra khỏi miệng chảo.

Ông già vợ trầm ngâm một hồi, thở ra :
-ba hiểu rồi, thiệt là cơ khổ. Nhưng chuyện nhơn duyên là chuyện lớn đời người, không thể vì vậy là hai con không thành chồng vợ. Con về thưa với anh chị, ba má dưới nầy không đòi hỏi gì cả, cũng không cần có đám cưới. Tới ngày đó, ba má nấu một mâm cơm gia đình, chỉ cần có mặt anh chị và ba má chứng kiến cho hai con lạy bàn thờ, xin phép ông bà tổ tiên để kết duyên thành chồng vợ là đủ.
Tôi ngắc nga, ngắc ngứ - rồi đồ cưới, khăn áo hoàng hậu, nhẫn cưới cho cô dâu, rượu trà, xe hoa… Ông nói - con không cần đem xuống gì cả, kể như là ba má và em con đã nhận lễ vật đầy đủ rồi, đời bây giờ nhiều chuyện rối rắm lắm, đừng có lo nghĩ thêm chi cho mắc công….
*
Ngày 30-5 năm 1975 nghiã là sau ngày mất nước một tháng, tôi cưới vợ và đám cưới hầu như không có. Bên nhà vợ tôi nấu một mâm cơm cúng tổ tiên, ông bà, hai đứa tôi lạy bàn thờ rồi lạy tứ thân phụ mẫu, ba má tôi và ba má D. ngồi trên bốn cái ghế đẩu nhỏ sắp hàng ngang trước bàn thờ. Chỉ có người nhà và không có ai lạ. Vậy là xong lễ thành hôn. Trong khi hai bên sui gia gặp nhau, cửa nhà đóng kín kỹ lưỡng, sợ công an khu vực vô phá đám, xui xẻo, hàng xóm không ai biết bên trong chúng tôi đang làm việc gì. Ngày hôm sau tôi về Bình Dương, lén dắt vợ đi chào và trình diện với những thân bằng quyến thuộc. Dù hết sức đơn giản nhưng tôi cũng có vợ đàng hoàng tử tế, đầy đủ lễ nghiã !.
*
Khi viết những dòng chữ nầy thì ông già vợ tôi đã mất từ lâu. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ những lời ông nói, tình thương ông cho tôi dù bao nhiêu nước chảy qua cầu, cuộc đời dâu biển, tôi vẫn thương ông như thương cha ruột tôi vậy.

Cụ Diễn cũng đã mất rồi, những lời tiên đoán của cụ ngày nào vẫn còn mãi mãi bên tai, làm sao tôi quên được. Tôi nợ cụ nhiều lắm, bây giờ làm sao trả đây. Không phải là nợ vật chất, tiền bạc, gói trà hay chai rượu mà tôi nợ cụ lời xin lỗi chân thành cùng lời khen ngợi tài năng cao xa của cụ. Cái lỗi ngu si của tôi rất lớn, ngày đó tôi còn quá trẻ chưa hiểu đời là gì, đã dám hoài nghi những điều mình chưa biết.

Toronto, ngày 30 /9/2002

Võ Kỳ Điền

Friday, March 21, 2008

KẺ ĐƯA ĐƯỜNG



Khi bà Sáu Đợi cố hết sức chen được khỏi đám đông lúc nhúc ở bến xe đò lục tỉnh để ra tới ngoài thì cũng đã xế chiều. Cái mặt trời cuối ngày lặn xuống gần sát nóc dãy lầu cao bên kia đường, sáng đỏ như chiếc mâm thau được chùi sạch. Vậy mà nó còn rán chiếu những tia nắng vàng nhạt le lói trên tấm bảng quảng cáo kem đánh răng sơn hình người chà đen với hai hàm răng trắng bóng, dựng ở đàng xa. Từ tờ mờ sáng, ngồi bó gối trên chiếc xe đò chật nứt, vượt một khoảng đường dài trên hai trăm cây số ngàn cho tới giờ, bà cảm thấy vừa đói vừa mệt.

Một bà già tuổi vừa tròm trèm sáu mươi, tay nầy phải xách một cái giỏ ny-lông lớn cột ràng chằng chịt, đựng đầy quần áo, vật dụng với trầu cau vôi thuốc, và tay kia, một con vịt xiêm lớn gần bằng con ngỗng thì đâu phải là một chuyện dễ dàng. Bà Sáu vừa đi vừa thở, tay kéo lê con vịt lông xám đen, óng màu xanh mươn mướt, cái mồng thịt u từng cục nhỏ màu đỏ bầm, cái mõ quét lệt bệt trên đường, để đến gần cột đèn. Con vịt cũng quá mệt mõi và đau đớn vì bị cột tréo cẳng cả ngày nên không còn sức dãy dụa, há miệng kêu vài tiếng cạp cạp nhỏ xíu rồi nằm im. Vài cơn gió mát từ xa thổi đến nhè nhẹ, bà Sáu ngồi bệt xuống lề xi măng, dựa lưng vào cây cột đèn mà thở một hồi cho lại sức.

Đã lâu lắm rồi bà không có dịp lên Sài Gòn, đâu chừng đã mười mấy năm. Trước mắt cảnh vật quay cuồng, nhộn nhịp. Cái gì cũng xa lạ quá chừng. Nhà cửa thì xây cất cao vút, đường xá chằng chịt dọc ngang. Mùi nhựa đường, mùi cao su, mùi khói xăng nhớt cùng tiếng xe cộ, tiếng người ta, tiếng vật dụng va chạm nhau, trộn lẫn nhau, tạo thành một thứ gì ồn ào, hỗn độn. Mắt nhìn mà không thấy hết, tai nghe nhưng không phân biệt được gì, đầu óc bà trở nên bồng bềnh, không định. Bà Sáu bị choáng ngộp trong cái thế giới của màu sắc, âm thanh, cảnh vật kỳ dị, lạ lùng. Tự nhiên bà đâm lo lắng, quơ tay cầm cái nón lá quạt nhè nhẹ, mắt nhìn ra xa. Người ta sao đông quá. Chỗ nào cũng đầy người đi lại nhưng tuyệt nhiên không một ai quen. Đâu có người nào để ý tới bà, thản nhiên đi đứng sinh hoạt như không hề biết đến chiều nay, ở trong cái thành phố to rộng nầy, có một bà già lặn lội từ thiệt xa đến với một nỗi lòng bồn chồn náo nức, một niềm vui sướng không bờ bến để mong gặp lại người chồng thương yêu mà bà đã chờ đợi trên ba mươi năm.

Phải rồi vừa đúng chẳn ba mươi năm cách biệt, kể từ ngày ông Sáu đành đoạn bỏ bê vợ dại con thơ để dấn thân lo việc nước dưới tài lãnh đạo của cụ Hồ. Thời gian chờ đợi mõi mòn. Chuyện tái hợp không bao giờ dám nghĩ đến, nào ngờ nó vẫn xảy ra. Như một giấc chiêm bao dài, có buồn có vui, có lúc bắt đầu và có đoạn kết thúc. Cái lúc bắt đầu thì có thương yêu, có tình nghiã, có nhớ thương, sầu khổ. Cuộc nội chiến tương tàn kéo dài của đất nước như một vết thương lở loét, làm đổ vở luôn cái hạnh phúc lứa đôi của cặp vợ chồng son trẻ với những ước mơ thật giản dị. Những ngày tháng lo lắng, sợ hãi. Những sáng nhớ, chiều mong. Có trái tim nào mà không héo hon, có cõi lòng nào mà không hoá thành đá. Cái đoạn kết thúc thì sắp tới rồi. Chỉ còn một đoạn đường ngắn, chừng ăn giập bã trầu là bà Sáu sẽ gặp lại người chồng đầu gối tay ắp năm nào với một niềm vui trùng phùng chứa chan...

Chừng đã bớt mệt, bà Sáu đứng lên định kiếm xe để đi đoạn cuối thì một chiếc xích lô từ góc đường trờ tới. Người phu xe nhịp nhịp cái cần thắng tay nghe lóc cóc, tuột xuống cái yên, chạy a đến nắm lấy cái quay giỏ xách, miệng chào khách:
-Ngoại đi về đâu, tui đưa cho ?
Bà Sáu Đợi sợ cái giỏ bị giựt mất, vội nắm ghịt lại, tay kia giở chiếc nón lá, ngước mắt nhìn thấy người phu xe trẻ tuổi, ngó một hồi lâu rồi nói ngập ngừng:
-Tôi muốn đi tới đường... đường gì đó, quên mất cái tên, cái số thì là một trăm... Ừ, ừ, ổng có viết trong thơ nói rõ đường đó hồi xưa tên Mặt Má Hồng, chú có biết không ?
Anh phu xe quay qua chụp lấy con vịt, quăng xuống dưới chỗ gác chưn, sửa lại cái nệm xe nhăn nhúm, miệng tía lia:
-Ngoại yên chí, đường ở bên Tây bên Mỹ thì tui không biết, chớ ở Sài Gòn, Chợ Lớn nầy ngoại muốn đi chỗ nào, tui đi chỗ đó cho coi !
Bà Sáu chưa vội bước lên xe, tay vịn lấy cái mui bằng vải ka- ki dày màu cứt ngựa:
-Mà từ đây tới đó, chú tính ăn bao nhiêu ?
-Thì ngoại cứ lên đi, tui không tính mắc ngoại đâu !
Bà Sáu nghe xong, muốn bước lên cho rồi, nhưng còn e dè, vì nhớ lời dặn dò của xóm giềng- ở Sài gòn người ta ưa gạt gẫm mấy người nhà quê thiệt thà, chất phác, bà đứng yên không nhúc nhích:
-Đâu có được nà, chú phải nói rõ để tôi còn liệu chớ. Rủi nhiều quá, tui không đủ tiền thì lấy gì trả đủ cho chú.
Anh phu xích lô cười hì hì:
-Ngoại lo xa chi cho mệt. Có thiếu thì còn con vịt xiêm nè.
Rồi anh đẩy bà lên nệm xe:
-Thôi tui tính ngoại mười đồng. Từ đây tới đó xa lắm. Tui tính rẻ cho ngoại. Người khác thì tui đòi đủ mười ba đồng.

Nói xong anh khom lưng đẩy xe lăn vài vòng cho có trớn rồi nhẩy lên ngồi ngất ngưởûng trên cái yên xe cao nghệu ở phía sau, ra sức đạp mạnh. Cái xe chở một bà già trầu ốm o nhỏ con nên nhẹ hững, chạy vùn vụt. Bà Sáu Đợi định trả giá bớt vài đồng nhưng thấy xe đã chạy khá xa nên đành thôi. Vả lại, hôm nay là ngày vui lớn nhứt đời bà, dẫu có thiệt thòi năm ba đồng bạc cũng không sao. Đã mấy mươi năm qua, ông Sáu đi biệt tăm biệt tích, bỏ mẹ con bà bơ vơ những tưởng đã chết ở một chưn trời góc biển nào rồi. Ngờ đâu, bây giờ ổng lại trở về, mạnh khoẻ lành lặn, không một thương tích gì hết. Phước đức biết bao nhiêu.

Bà ngồi dựa lưng trên nệm xe, hai chưn duỗi thẳng ra cho thiệt thoải mái. Nỗi mệt nhọc ban trưa tan biến từ từ. Chiếc xe vẫn lăn bánh đều đều. Phó xá hai bên đường thay đổi muôn hình muôn vẻ. Có cái nhà thiệt cao, có cái thấp. Có cái nhô ra có cái thụt vào. Bảng hiệu xanh xanh, đỏ đỏ. Nhưng phần lớn nhà nào cũng đóng cửa kín mít. Ở lề đường có các sạp bán thuốc lá và các món hàng lặt vặt. Người buôn kẻ bán lưa thưa. Trên mặt đường lộ người ta đi xe đạp nhiều quá, phải chen lấn nhau. Anh phu xe cứ phải nhịp thắng loong coong làm hiệu, miệng chữi rủa lầm bầm không dứt.

Bà Sáu nhìn hai hàng cây sao cao vút bên đường mà tưởng tượng hoài cũng không hình dung ra được cái cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau ba mươi năm xa cách nó sẽ ra sao ? Còn ông Sáu thì chắc đã già lắm rồi. Ông tuổi con mèo, vậy là lớn hơn bà bốn tuổi, tính đến năm nay là sáu mươi ba. Cuộc sống lại đầy phong sương gió nắng thì ổng cũng như một cái cây mọc trên đỉnh đồi khô, tả tơi, héo úa. Răng chắc đã rụng, mắt đã mờ, da dẻ nhăn nheo, cũng y như bà bây giờ. Tuy nhiên có điều, ông không như bà về mặt công danh sự nghiệp. Sau một thời gian dài phấn đấu cam go trong cuộc sống, cô Sáu bán trầu chỉ trở thành bà Sáu... cũng bán trầu. Còn anh nông dân Sáu Nếp chuyên cày bừa cuốc xới thì trở thành Thượng Tá Nhật Hồng. Bà Sáu chắc lưỡi, thiệt tình cách mạng có nhiều điều khó hiểu quá. Thượng tá là làm việc gì bà không biết đã đành rồi mà tại sao ổng tên là Nếp rõ ràng mà nay đổi là Nhật Hồng, bà cũng chịu thua luôn.

Bà Sáu thấy cần phải chia xẻ bớt niềm vui no ứ đang tràn ngập trong tim trong phổi:
-Chú đạp xe như vầy có khá không ?
-Đạp xích lô làm sao mà khá được ngoại. Đủ ăn là mừng lắm rồi.
Rồi anh ta cúi sát lưng xuống đổi sang giọng hỏi thăm:
-Bộ ngoại lên Sàigòn thăm bà con hả ? Con vịt xiêm mập ghê. Đúng là vịt Cà Mau.
Cái niềm vui được dịp nổ bùng qua câu trả lời trật nhịp:
-Tui đâu phải ở Cà Mau. Ở Ba Tiệm đó! Đi ngã bắc Vàm Cống mà !.
Anh phu xe chừng như chưa bao giờ nghe qua cái địa danh là lạ đó, phát cười:
-Ba Tiệm là ở đâu vậy ngoại, có gần Năm Căn không ?
Không kịp để ý câu hỏi lý lắc của anh phu xe, bà giải nghiã thiệt tình:
-Vậy là chú chưa đi xuống miệt dưới phải không ? Để tui nói cho nghe nè. Năm Căn, Đầm Dơi, Cái Nước là ở tuốt dưới Cà Mau kia lận. Chú muốn đi xuống dưới đó thì phải qua bắc Mỹ Thuận rồi theo ngã Vĩnh Long qua bắc Cần Thơ, đi Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Đó là tui nói mấy tỉnh dọc theo bờ sông Hậu. Còn Ba Tiệm là ở phía Châu Đốc. Cũng đi quốc lộ bốn tới bắc Mỹ Thuận, phải tẻ bên ngã Sa Đéc rồi qua bắc Vàm Cống để đến Long Xuyên. Từ Long Xuyên mình đi lên gặp Cái Dầu, Vịnh Tre rồi mới tới Ba Tiệm...
Rồi không cần biết người phu xe có nghe được hay không, bà nói tiếp:
-Chú lên tới đó rồi phải hướng về Mỹ Đức chừng vài cây số nữa mới tới nhà tui. Miệt trển người ta thường trồng nhãn, trồng trầu. Vườn trầu của tui độ chừng ba công đất. Phải nhờ mấy đứa cháu nó tưới, chớ già rồi đâu có gánh nước nổi. Chú biết không, trồng trầu cực nhứt là cái vụ tưới...

Nói tới đây cảm thấy hình như chú phu xe không còn để ý đến câu chuyện, bà bèn ngưng ngang. Nhưng cái ảnh hưởng của câu nói còn gợi cho bà liên tưởng tới hình ảnh những ngày mới lớn sống bên vườn trầu lá vàng rực rỡ. Thưỏ đó bà phụ với cha mẹ, tưới nước, vô phân, hái lá, đem bán ngoài chợ hoặc đếm bỏ mối cho bạn hàng ở tỉnh. Công việc đều đặn theo tháng năm cho đến ngày gặp ông Sáu. Bất chợt anh phu xe đâm hỏi ngang xương:
-Vậy chớ ông ngoại già gánh nước hết nổi rồi hả ? Sao ổng không phụ với ngoại ?
Nghe hỏi tới chồng bà sung sướng hãnh diện mà khoe:
-Ổng đâu có chịu ở nhà trồng trầu. Đi theo cụ Hồ từ thời tầm vong vạt nhọn. Cái thời Thanh Niên Tiền Phong á mà. Hồi xưa thì làm ruộng ở Nhơn Ái. Ba Tiệm là quê của tui. Còn nhà ổng ở tuốt dưới miệt Ô Môn, Bình Thuỷ. Mà chú biết Ô Môn, Bình Thuỷ, Phong Điền, Phong Phú không ? Nhơn Ái thuộc quận Phong Điền, tỉnh Cần Thơ mà..

Nói tới đây bà nhớ tới cái thuở mới quen với ông Sáu. Đường đất từ Nhơn Ái tới Ba Tiệm nó xa xôi, diệu viễn. Phải qua biết bao nhiêu khúc sông, vượt biết bao nhiêu dặm đường. Vậy mà hai người vẫn gặp gỡ nhau được mà thành chồng vợ. Như có bàn tay của ông trời sắp đặt vậy. Lúc đó có một đám cưới ở trong làng, cô sáu Đợi má phấn môi son, tay cầm bóp đầm đứng cạnh cô dâu. Bên đàng trai, anh Sáu nếp áo dài, khăn đóng, lượt bượt bưng mâm lễ vật đi sau lưng chú rể, mắt liếc liếc nhìn trộm bên nhà gái. Chợt bắt gặp cặp mắt đen bóng như hột mãng cầu của người con gái vườn trầu nhìn mình đăm đăm, tay chưn anh đâm luống cuống. Cái tiệc cưới đông đảo, người người cười nói vang rân, vậy mà anh Sáu có thấy ai nữa đâu. Anh tìm mọi cách để làm quen nhưng không dám, đành im. Cuối cùng phải nhờ bác Tư Sửu làm mai mối.

Bây giờ bà nhớ tới những ngày mới quen nhau sau khi dạm hỏi mà còn tức cười. Cái kỷ niệm ngày xưa sao mà dễ thương quá. Một buổi sáng tháng chạp gần cuối năm, ông Sáu khệ nệ xách một xâu gà vịt cùng một bao gạo nanh chồn để đi Tết bên nhà gái. Bà đã đứng nép bên cột nhà để nhìn người chồng tương lai, lòng rộn ràng e ấp. Ông Sáu đã đứng khoanh tay nói với ba má bà những lời thăm hỏi, giọng ấp a ấp úng, mặt đỏ rần. Bà chợt tức cười, đâm bạo dạn, vọt miệng trêu chọc ông bằng một câu hát quen thuộc:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay !
Ba má và ổng cùng cười. Má bà đã rầy:
-Có gì mà con sợ người ta nói ra nói vô. Cậu Nếp bây giờ kể như là rể con trong gia đình mình rồi mà !

Lúc đó bà cảm thấy mối tình của hai người êm ái như sóng lúa đêm trăng, dài rộng như sông Tiền sông Hậu, rực rỡ như rặng ô môi tới mùa nở hoa. Sang năm sau, tới ngày đám cưới, bà phải về quê chồng sống nghề ruộng rẫy. Tình thương hai vợ chồng trẻ thiệt là chân thành những tưởng là êm vui cho tới ngày răng long đầu bạc. Nhưng cái hạnh phúc con người tự nó vốn đã mỏng manh. Nói chi phải chịu thêm những biến cố của cuộc đời chi phối như một thứ định mệnh khắc nghiệt. Tự ngàn xưa, chiến tranh là một thử thách nhiều đau xót cho người đàn bà. Cái đêm từ giả để ra đi, ông Sáu đã cầm tay vợ dặn dò gởi gấm việc nhà, đồng thời hứa hẹn một ngày đoàn tụ rất gần. Ông nói những câu mà bà còn nhớ mang máng như vầy:
-Ngày hai vợ chồng mình gặp lại nhau phải là ngày đất nước độc lập thanh bình. Toàn dân phải được ấm no, an cư lạc nghiệp. Cái hạnh phúc cá nhơn sao bằng cái hạnh phúc của tập thể, đồng bào...
-Sao em lo sợ quá! rủi thất bại thì sao ?
-Sao lại không thành công được. Có gì sơ sót nữa đâu. Con đường anh theo là đúng, người ta đã mở lối, mình chỉ có việc dấn bước. Vợ chồng mình cùng đồng bào ngày nay như hành khách ngồi trong một chiếc xe, có được người tài xế đầy kinh nghiệm tài ba điều khiển. Cụ Hồ đã dầy công lặn lội qua Tàu, qua Nga để học hỏi.. rồi về dẫn dắt toàn dân theo. Anh chỉ làm bổn phận của người trai trong thời loạn... Ngày về, hai vợ chồng mình sẽ gầy dựng lại căn nhà cũ, cày xới lại mảnh ruộng xưa, sống đời độc lập, tự do, sung túc, yên vui. Em rán chờ, để anh yên lòng mà đi...

Chiếc xe vẫn lăn bánh đều đều, không mau không chậm. Phía sau giọng anh xích lô ồm ồm vang lên:
-Ngoại muốn đi tới đường nào ? Nói chuyện một hồi quên phứt rồi. Phan thanh Giản hay Trần Quốc Toản ?
-Trời đất ! Vậy nãy giờ chú chạy đi đâu ? Tui nói đi tới chỗ nhà mới của ổng. Ở ngoài Bắc ổng vừa về tới Sài gòn, đường Mặt Má Hồng, nhà số một trăm. Chú coi chừng lộn đường đó. Trời xế chiều dữ rồi đa !
Anh xích lô lẩm bẩm:
-Cái đường gì kỳ cục vậy ! Mặt Má Hồng phải là đàn bà. Vậy là đường Bà Huyện Thanh Quan hay Hồ Xuân Hương gì đó phải không ngoại ?
-Thiệt là khổ quá ! Vậy mà hồi nãy chú nói đường xá Sài Gòn Chợ Lớn chú biết rành lắm. Tui có biết bà nào là bà nào đâu. Rủi lạc đường tối nay tui ngủ ở đâu ?
-Ngoại đừng có lo. Trước sau gì cũng tới nơi mà. Tên đường đàn bà mới sửa lại thì có đường Võ Thị Sáu nè, đường Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Thị Minh Khai...
-Hổng phải mấy cái tên đó đâu. ỔÅng viết trong thơ nói hồi xưa trước năm bốn mươi lăm, đường đó tên là Mặt Má Hồng, còn bây giờ thì tên gì... tên gì đó, ổng cũng có viết rõ mà tui quên mất...
Anh phu xe cằn nhằn:
-Thiệt tình rắc rối quá ! Đời bây giờ thì nói chuyện bây giờ, nói chi chuyện xưa. Muốn má hồng thì đánh phấn tô son lên, dễ quá mà ngoại. Ừ, ừ, còn một bà nữa, chắc là đúng rồi. Phải đường Mạc Thị Bưởi không ? Tên có chữ " thị " đúng là đàn bà rồi !
-Tui đâu có biết, chú liệu mà đi.

Chiếc xe vẫn lăn bánh. Từng con đường lần lượt qua. Chú xích lô nhìn từng tấm bảng chỉ đường trên cột mà quanh trái, rồi quẹo phải. Ánh nắng đã tắt từ lâu, đèn đường thì chưa bật sáng. Từng cơn gió thổi lùa vào trong khoang xe, bà Sáu nghe trên mặt mát rượi nhưng trong lòng thì nóng như lửa đốt. Chỉ còn một chút xíu nữa thôi là bà sẽ gặp lại chồng, nào ngờ gặp phải cái thằng phu xe ba trợn nầy. Bà nhắc chừng:
-Thôi chú không biết đường thì kiếm người nào biết mà hỏi. Chớ chú chạy hoài chạy hũy vậy cũng không tới đâu.
-Ừ, ừ, ngoại nói có lý. Để hỏi lại cho chắc ăn. Chớ theo tui, nó là đường Mạc Thị Bưởi, làm sao trật được.
Miệng vừa nói, anh ta cho xe cặp vô lề từ từ. Có một người đi ngang dáng lầm lũi. Anh phu xe ngừng lại, lon ton tuột xuống cái yên, chạy lại níu tay người khách bộ hành, hỏi đường đi.
Người kia ngợ một hồi lâu, lấy tay chỉ chỏ ra dáng còn chừng xa lắm. Hai người quơ tay quơ chưn ra dấu, chỉ chỏ lung tung. Bà thấy khi thì chỉ lên, khi thì chỉ xuống, bèn nhìn theo hướng ngón tay, đường nào cũng dài thậm thượt, ngang dọc như bàn cờ, không giống như dưới Ba Tiệm chút nào. Bà Sáu đành chịu thua, không biết đâu mà định hướng được. Chú xích lô trở lại xe, miệng láp dáp:
-Con đường gì kỳ cục quá. Theo ông đó thì còn phải đi xa lắm. Dọc theo đường nầy rối quẹo qua tay mặt, lên một cái cầu, rồi đi thêm hai đường nữa mới tới.

Nói xong anh ta lấy hết sức đạp thiệt mạnh. Cái xe đi vùn vụt. Bà Sáu sợ quá, vịn chặt cái thanh sắt bên thành xe mà chịu trận. Trong bụng nghĩ cái thằng nhỏ nầy nó phát khùng rồi. Thiệt là xui xẻo, đến phút cuối cùng rồi mà sao còn rắc rối quá. Bà đâm lo và thắc mắc:
-Chú xích lô, chú xích lô, chạy chậm chậm lại. Chú chạy lẹ quá, rủi quanh cua nó lật úp hay xe hơi đụng chết hết bây giờ. Mà, mà ... chú làm nghề đạp xích lô nầy lâu chưa ? Sao tui thấy chú còn trẻ quá...
Chiếc xe từ từ giảm tốc lực, chạy chậm lại với nhịp độ bình thường, giọng người phu xe hổn hển:
-Ối, ăn thua gì mà ngoại lo. Tui còn dám đua Honda ngoài xa lộ, sá gì chiếc xích lô đạp chậm rì nầy. Hổng dấu gì ngoại, mới nghỉ học đạp xích lô chừng tuần nay...
Nói xong anh ta rà thắng lại, cho xe leo lên dốc cầu. Cái cầu nầy lai chia ra làm hai nhánh. Chiếc xe từ từ theo hướng tay mặt, ôm sát vòng quanh, rồi đi thẳng tới. Nhà cửa phố xá khu nầy trông xập xệ tiêu điều, thiếu vẻ khang trang ngoài đường lộ lớn ban nãy. Có nhiều nhà phơi quần áo xanh đỏ phất phơ trước cửa. Dưới sân là những đống xác mía được cào ra bốn phía để phơi cho mau khô. Có nhà bày củi sắp lớp ở ngoài sân, những cây củi đước nhỏ bằng ngón tay cái, được lột vỏ, thịt cây màu trắng đo đỏ. Có nhà làm nghề dệt chiếu, từng bó lát dài chừng hai thước được nhuộm phẩm xanh đỏ tím vàng, treo dọc theo hàng hiên trước cửa. Chừng đã thấm mệt, chiếc xe chậm lại rồi ngừng hẳn. Anh phu xe tay quẹt mồ hôi trên trán, miệng đòi tiền:
-Tới rồi ngoại. Ở đây nè ! Đường nầy là đường Mặt Má Hồng.
Bà Sáu nghe nói mừng quá, dợm bước xuống, nhưng nhớ lại trong thơ chồng đã tả về căn nhà mới. Đó là một căn biệt thự có lầu cao ba từng, có trồng hoa kiểng. Trước nhà có cổng xây bằng đá hoa cương, bên trong toàn là cửa kiếng, đường trải sỏi trắng. Còn ở đây nhà cửa lụp xụp, mặt lộ đầy ổ hang, bụi bặm, rải rác đây đó có nhiều bãi phân bò, phân heo.
-Thiệt đúng là đường Mặt Má Hồng không đó chú ?
-Thiệt mà ngoại. Nói láo gạt ngoại làm chi. Tính ngoại mười đồng thôi. Đường xa quá, đáng lẽ phải đòi thêm...

Nói xong anh ta hối bà Sáu bước xuống, nắm con vịt quăng trên lề đường, lấy tiền nhét lẹ vô trong túi áo, rối đạp xe đi thẳng. Bà Sáu bước vô lề, tay xách giỏ ny-lông, tay nắm lấy con vịt, mặt ngơ ngác loay hoay không biết phải làm sao nữa. May quá, có một người đứng tuổi đi ngang, dáng hiểu biết. Bà níu tay lại hỏi thăm đường. Người khách lạ, nghe xong trợn mắt nhìn sững bà từ đầu tới chưn, rồi mới nói:
-Bà đi lầm đường rồi. Cái đường bà hỏi đó lúc trước nó là đường Công Lý, nối liền với đường Cách Mạng Một Tháng Mười Một. Bây giờ nhà nước sửa lại là Nam Kỳ Khởi Nghiã. Nó ở tận bên Sài gòn lận. Còn đường nầy là đường Hưng Phú thuộc quận mười. Chỗ nầy kêu là khu Chánh Hưng, bà không thấy cái lò heo lớn ở đàng kia sao ?

Rồi ông ta lấy tay chỉ chỉ về phía trước mặt. Bà Sáu nhìn theo hướng chỉ, thấy nhà cửa phố xá chập choạng, bụng rối như tơ vò:
-Trời ơi, vậy sao ? Cái thằng xích lô trời đánh thánh vật. Cái thân nó đã không biết đường mà còn hứa ẩu, lãnh đưa người ta đi. Rồi biết chừng nào mới gặp được chồng tui !
Bà để con vịt xuống than thở:
-Thiệt là khổ quá chừng. Khi không đưa vô công- xi heo để làm chi vậy nè trời !
Ông khách dợm bước đi nhưng còn rán an ủi:
-Trời cũng đã hơi khuya. cũng may có một mình bà đi lạc cũng dễ tìm đường ra... Thôi, rán mà tìm người tài xế khác lương thiện, tử tế hơn. Trước sau gì cũng tới mà, chỉ trễ nải một chút...
Võ Kỳ Điền
(trích trong tập Kẻ Đưa Đường, xuất bản 1986)

Thursday, March 20, 2008

MỘT THỜI ĐỂ YÊU



Năm vừa ra trường, Hưng được đổi về dạy ở trường trung học Hoàng Diệu, thuộc tỉnh Ba Xuyên. Cái vùng đất cuối cùng của đồng bằng miền Nam, lầy lội ẩm ướt vào mùa mưa, bụi cát nóng bức vào mùa nắng. Miền Hậu Giang do phù sa mới tạo thành, nền đất thịt không được vững chắc như các tỉnh miền Đông. Đường sá rất mau hư, chỉ cần trải qua một mùa mưa là phải tu bổ lại.

Trường cách chợ vài con đường nhỏ. Phía bên kia là ruộng nước đầy cóc nhái, ễnh ương, đêm đêm kêu vang đầy đồng, nghe buồn não nuột. Con đường Mạc Đĩnh Chi chạy ngang trước cổng trường được tráng nhựa từ những năm trước, bây giờ còn trơ lại mặt đường đá xanh lồi lõm với những ổ gà đầy sình nước. Trong sân trường thì tệ hơn nữa vì đất thấp hơn mặt lộ. Tuy nhà trường đã hết sức sửa sang, bồi đắp nhưng chỉ vài cơn mưa là bùn lầy phủ ngập lối đi. Cỏ ống xung quanh sân, mọc cao tới ngực. Các đường mương thoát nước ra ruộng sau hè, nhiều khi tụi học trò mò bắt được cá rô, cá lóc, cá sặc. Các giàn bông giấy lá mọc xanh rì, nhánh đâm tua tủa, chú lao công người Miên phải vất vả dùng rựa mé nhánh hoài nhưng đâu cũng vào đó.

Ngày mới đến trình diện ông Hiệu Trưởng để nhận việc, Hưng nhìn cái cái sân đầy cỏ xanh với mười sáu gốc còng to cỡ hai người ôm, tàn lá rậm rạp âm u mà buồn cho cái thân phận "Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai " Năm đó Hưng mới có hai mươi ba, đen thui, ốm nhom nên cao nhòng. Ông Hiệu Trưởng thấy vẻ thất vọng của người thấy giáo mới lớn nên vỗ về an ủi:
-Đất nầy coi vậy chớ đi dễ khó về. Ở lâu thấy nó dễ thương lắm. Nội con đường Nhị Trưng có hai cái cầu Bon với cầu Quay là đi hoài cũng không hết. Nói chi tới Phú Tâm, Bãi Xàu, Kế Sách...
Hưng tức cười trong bụng. Ông già nầy tính dụ dỗ mình đây. Ở lâu thấy nó dễ thương! Trời đất! Phải ở đây thiệt lâu thì mới thấy... Vậy thì mình phải trụ trì ở cái trường Hoàng Diệu nầy bao nhiêu năm nữa mới được đổi về quê nhà ?

Thiệt ra thì Sóc Trăng đâu có buồn như Hưng tưởng. Cái thị xã Khánh Hưng ồn ào, náo nhiệt suốt ngày đêm. Người buôn kẻ bán tấp nập, xe cộ, ghe thuyền rộn rịp lưu thông, tạo nên một sinh hoạt trù phú ở miền ruộng đất cò bay thẳng cánh. Trên lề đường quanh chợ, người ta bày bán từng giỏ cần xé to, nào nhãn, táo, ổi. Những trái nhãn hái từ vườn ở Vĩnh Châu, hột đen nhánh, cơm dầy, mùi thơm nức mũi. Những trái táo lớn cỡ bằng ngón tay màu xanh xanh vàng vàng, ăn cái vị chua chua, ngòn ngọt. Những buổi trời mây âm u, đâm nhớ nhà, Hưng buồn buồn, ngồi ăn táo chấm với muối ớt một hơi gần hết cả kí lô, vậy mà cũng chưa muốn thôi...

Rồi đến những ngày tựu trường, nhìn những gương mặt sáng sủa, yêu đời của đám học trò mà vui lây. Những giọng nói líu lo, những tiếng cười đùa không dứt. Tuổi trẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng quá. Hưng hoà mình trong niềm vui đó, quên mất tháng năm. Thành phố Sài Gòn với những công viên đầy lá me bay, lui dần vào quên lãng. Cho đến mùa mưa thứ ba Sóc Trăng thì một tình cờ chợt đến. Cái tình cờ không đợi nhưng nó vẫn xảy ra.

Buổi sáng sớm đó đã gần bảy giờ, Hưng dùng xong điểm tâm, ăn mặc chỉnh tề, sửa soạn đến lớp. Chàng ra đứng trước cửa nhà, ngó qua bên trường, để đợi tiếng kẻng. Nhà trọ ở ngay trước cổng chánh của trường, bên nầy đường. Trời đã dứt cơn mưa từ lâu, nhưng đường sá còn ướt sũng. Bất ngờ có tiếng con gái, ồn ào bên tai:
-Thưa thầy cho tụi em xin vào trong rửa chưn. Đường trơn, đứa nào cũng bị lọt xuống sình!
Hưng quay lại thì thấy không phải là học trò lớp mình. Cô nào cô nấy đều lạ, những chiếc nón lá nghiêng vành, che khuất vài ba khuôn mặt, chàng nhìn không rõ. Những tà áo dài trắng điểm lấm tấm vệt bùn xam xám. Chắc là tụi A1 của thầy Định.

Hưng để cặp sách trên ngạch cửa, dẫn cả đám vào sàn nước bên hông nhà. Sân rộng, hồ nước thật lớn. Các cô vội vã đưa chưn vào vòi nước để rửa những vết dơ lấm lem bùn đất. Cho tới cô cuối cùng, Hưng vô tình nhìn kỹ hơn. Cô ta có bàn chưn nhỏ gọn xinh xắn, các ngón tròn trịa, đều đặn. Đặc biệt là gót chưn đỏ hồng. Màu đỏ như son mịn. Trong đời Hưng đã thấy nhiều người đẹp nhưng chưa bao giờ để ý tới bàn chưn một người con gái. Lần đầu tiên chàng ngất ngây trước một bàn chưn đẹp. Chừng như cảm giác có gì kỳ lạ, cô học trò quay lại nhìn thì bắt gặp ánh mắt đăm đăm của ông thầy giáo trẻ. Cô gái cuống quít, bỏ vội lai quần xuống, xỏ đôi chưn hồng vô đôi guốt sơn, kéo chiếc nón lá che nghiêng cặp mắt tròn vo, đen bóng như sơn mài. Có tiếng thúc giục:
-Lẹ lên nhen, tới giờ rồi kìa !
Cả đám quay lại, cúi đầu chào Hưng, rối kéo nhau, tuôn ra cửa, tiếng líu lo cười nói như chim. Đường sá còn đầy sình. Những bàn chưn vừa được rửa sạch, rón rén bước những bước cẩn thận trên những cục đá nhô cao. Hưng đi theo phía sau cô học trò có cái gót chưn đỏ hồng với làn da mịn mà nghe lòng xao xuyến như lần đầu tiên được cầm bàn tay run rẩy của người con gái lạ. Ôi! cái niềm vui mong manh, đơn giản nhưng trong sáng làm sao!

Từ đó, vào những buổi sáng, Hưng mong cho trời mưa để đường lầy lội. Dầu Hưng mong hay không, trời vẫn cứ mưa. Có những buổi trời mưa thật lớn, rồi cũng có những buổi trời mưa lất phất. Con đường Mạc Đĩnh Chi ngang cổng trường, bùn sình ngập tới mắt cá. Hồ nước của nhà trọ đầy tràn. Vậy mà không có người ghé xin nước, để rửa chưn !

Mãi cho đến mấy tháng sau, thầy Định dược đổi về Sài Gòn. Hưng được giao thêm Đệ Nhị A1. Ngày đầu tiên bước vào lớp, chàng bắt gặp ngay được cặp mắt to, đen như hột nhãn của người rửa chưn ngày nào, ngó chàng đăm đăm. Lật sổ ra điểm danh thì cô bé tên Trần Thị Hạnh. Hỏi thêm, thì biết nhà ở đường Nhị Trưng. Ông Hiệu Trưởng quả là một nhà tiên tri đại tài. Ba năm trước nói một câu bâng quơ -nội cái con đường Nhị Trưng, đi hoài cũng không hết. Bây giờ lời đó ứng nghiệm rõ ràng.

Có những đêm thức soạn bài tới khuya, Hưng không thấy mệt mõi chút nào. Những bài giảng phong phú và lưu loát , nói chung cho cả lớp nhưng mà như cho riêng ai nghe. Có cái gì riêng tư không biết nữa, nó ràng buộc tâm tình chàng với cái hồn nhiên ngây thơ của cô học trò mới lớn. Làm sao Hưng quên được hình ảnh dễ thương của nàng mỗi lần đến thăm gia đình. Ba Hạnh tánh hăng say hoạt động, tuổi già nhưng còn rất trẻ trung. Ông giúp đỡ nhà trường rất nhiều và đã đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Phụ Huynh Học Sinh liên tiếp trong nhiều niên khoá.
Có lần đến nhà, Hạnh rót nước để mời chàng, giọng êm ái trong veo như gió thoảng. Bộ ghế ở phòng khách thì thấp, nàng phải quì xuống để đặt khay trà lên trên bàn, mái tóc ngắn ôm sát lấy khuôn mặt tròn xinh xinh. Cả người đầy nét thùy mị, dịu dàng, y như những cô gái Nhựt Bổn trong tranh.
-Ngày Chúa Nhựt mà thầy không đi chơi đâu sao ?
-Thì tôi lại thăm ông bà Hội Trưởng nè, được em cho uống nước trà ngon, cần gì phải đi đâu xa xôi chi cho mất công.
Ba Hạnh nói tiếp:
-Ông giáo sư còn trẻ mà lại học giỏi, chịu khó. Con Hạnh về thường cứ nhắc hoài những bài giảng trong lớp...
Hưng nghe khoan khoái trong bụng nhưng không biết nên trả lời ra sao:
-Dạ, tôi cũng dạy y như hồi học được ở Sư Phạm. Chắc là nhờ lớp Hạnh, học trò giỏi nhiều hơn lớp khác.
Má Hạnh xen vô:
-Ông giáo sư nói vậy chớ, chắc con Hạnh học không giỏi đâu. Tôi thấy nó về nhà đọc tiểu thuyết không hà !
Hạnh mĩm cười nhìn Hưng:
-Tại thầy biểu đó, chớ con đâu có ham tiểu thuyết. Hồi trước con thích đọc thơ... Thầy Hưng dạy văn chương mà viết văn làm thơ thì chắc hay lắm !
Hưng nghe xong, cười ngất, quơ hay:
-Nghĩ như vậy là sai rồi, cô ơi ! Thầy giáo dạy văn chương mà nói chuyện về thơ văn thì cũng như các ông thợ mộc... thợ hồ... bàn về mỹ thuật...
Hạnh tròn mắt, nhìn thầy, ngạc nhiên.
-Tôi nói thiệt mà, không phải giỡn đâu. Ở Sư Phạm hoặc Văn Khoa, tụi tôi chỉ được học cách phân tách, phê bình để giảng dạy một bài thơ hoặc một bài văn cho học trò lớp nhỏ, tàm tạm cho người chưa biết, hiểu được chút ít thôi. Nếu có cái gọi là kỹ thuật viết văn hay làm thơ mà dạy và học được, thì ai cũng thành văn sĩ hay thi sĩ hết rồi. Mà Hạnh thấy đó, người viết văn làm thơ thì nhiều mà thành danh đâu có được bao nhiêu. Đâu phải hễ in được một hay hai cuốn thơ là được người đời kêu bằng thi sĩ. Cũng vậy, đối với các giới khác, đâu phải bác sĩ là đều phát minh ra được thuốc trị bịnh, kỹ sư là chế ra được xe hơi, máy bay. Cái tài năng nghệ thuật đó, không phải do sự học... mà do thiên phú. Phải trời cho mới được !
Hạnh le lưỡi, làm ra vẻ sợ hãi.
Hưng tiếp:
-Hạnh có nghe tôi kể lần nào, câu chuyện người thợ làm bánh xe của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh chưa ?
-Dạ chưa, thầy kể cho em nghe đi !
-Lâu quá rồi, tôi quên mất tên ông vua nhưng đại khái câu chuyện như vầy. Đời xưa, có ông vua nhân lúc thanh nhàn, ngồi đọc sách, dáng điệu nghiêm trang, kính cẩn. Ở dưới thềm có người thợ làm bánh xe đương đục đẽo cồm cộp. Người thợ vừa làm việc vừa ngó ông vua. Thấy ông nầy đọc sách say mê, bèn bỏ bào, bỏ đục, bước lên thềm, vòng tay hỏi:
-Muôn tâu bệ hạ, xin cho thần được hỏi, bệ hạ đọc những gì trong đó ?
Nhà vua trả lời:
-Ta đọc những lời vàng ngọc của thánh hiền.
Ông thợ nhếch mép:
-Muôn tâu, xin bệ hạ thứ lỗi cho hạ thần. Hạ thần nghĩ là bệ hạ đọc những căn bã của thánh hiền mà thôi.
Nhà vua trợn mắt, nhìn sũng ông già.
-Muôn tâu bệ hạ, thần dám liều gan nói như vậy vì có chút ít kinh nghiệm về việc nầy. Thần không dám nói đến việc kinh sách, thơ văn cao xa. Hạ thần chỉ dám nói về việc đóng bánh xe gia truyền của dòng họ nhà hạ thần thôi. Như muốn gắn cái niền sắt vô bánh xe bằng cây, thì phải cầm cây búa mà gõ từ từ. Nếu gõ nhẹ tay thì làm sao cái niền nó ôm sát được vô cái bánh. Nếu gõ mạnh tay thì bánh xe bằng cây bị nứt bể. Phải làm sao đập từng nhát búa đều đặn, nhịp nhàng khi mạnh khi yếu, khi mau khi chậm, để cái vòng sắt ôm chặt lấy cái khung bánh. Khi đã đâu vào đó rồi thì bánh xe dùng cả chục năm cũng không hư...
Đó chỉ là cái nghề nhỏ mọn, mà từ đời ông nội hạ thần muốn truyền lại cho cha hạ thần, rồi cha hạ thần muốn truyền lại cho hạ thần, cũng không thể viết ra sách được, cũng không thể nói bằng lời được. Lúc nhỏ thần muốn học, phải ngồi mà coi cái ý, theo dõi cái tình, rồi lấy cái tâm mà lãnh hội. Phải mất một thời gian lâu dài mới được như ngày nay. Nghề đóng bánh xe còn vậy, nói chi đến kinh sách, thơ văn. Làm sao mà nói được bằng lời, ghi lại bằng chữ những ý đẹp, tình cao. Cho nên hạ thần dám nói, cái mà bệ hạ đọc trong kinh sách, những cái đó chỉ là cặn bã mà thôi.
Hưng uống một hớp nước, rồi nói tiếp:
- Câu chuyện được đặt ra để chứng minh rằng, lời không nói hết được ý, ý không nói hết được tình. Mà chuyện viết văn, làm thơ là chuyện của ý với tình, làm sao cái ngôn ngữ, văn tự, của một ông thầy giáo, dầu là thầy dạy văn chương đạt tới được !
Hạnh nghe xong cười cười, nhìn chàng thật lâu, rồi nói chậm rãi:
-Thầy nói vậy thì em nghe vậy ! Để rồi em bắt chước Xuân Diệu, Huy Cận làm thơ cho thầy coi.
Hưng nhìn lại Hạnh, thương thương cái tánh bướng bỉnh:
-Cô học trò thi sĩ của tôi ơi ! Nghệ thuật là sự sáng tạo, chớ không phải bắt chước. Nếu bắt chước thì không còn là nghệ thuật nữa. Thí dụ như một ngày nào đó, có một cô bé đi học, gặp bữa trời mưa ướt át, chưn dính đầy sình bùn, đứng nghiêng mình bên hồ nước, kéo cái lai quần lên để rửa chưn. Gót chưn đỏ như son mịn, dáng vẻ thật là duyên dáng, dễ thương, ai nhìn thấy cũng yêu cũng mến. Có cô nàng nào đó, ô dề kịch cợm, thấy vậy bắt chước cũng uốn éo làm duyên, làm dáng, dậm chưn cho dính đầy bùn đất rồi dội hết cả hồ nước. Tôi nghĩ anh chàng nào mà thấy, chắc phải bỏ chạy cho thiệät xa...
Cô bé chớp mắt:
-Thầy nói thiệt hả ! Em không tin có người nào mới nhìn một cái gót chưn người lạ, mà thương liền !
Ba Hạnh ngồi im lặng nãi giờ, không hiểu nội dung câu chuyện bóng gió xa xôi của Hưng, xen vô góp lời:
-Con còn nhỏ, chưa biết hết đâu. Đời thiếu gì những điều kỳ lạ mà mình chưa biết. Như nàng Mỵ Nương, chỉ nghe tiếng sáo của Trương Chi, mà bịnh tương tư liệt giường liệt chiếu. Cái ông hoàng tử trong chuyện Tấm Cám, chỉ mới nhìn thấy có một chiếc giày mà đã chết mê chết mệt. Nói gì nhìn cả một gót chưn. Thầy Hưng nói phải đó !
Má Hạnh nhìn con gái trìu mến:
-Hồi nãy giờ cha con, thầy trò đối đáp, tôi không hiểu gì hết trơn !
Cả bốn cùng cười vang. Hạnh ôm lấy vai mẹ, nũng nịu:
-Con định làm thi sĩ mà thầy Hưng chưa gì hết, đã chê !
Khi từ giã ra về, Hưng đi sát bên Hạnh, vẻ nghiêm trang:
-Nói chơi cho vui chớ tôi vẫn mong được những bài thơ của Hạnh.
Hạnh nhìn qua chàng:
-Thầy không sợ những bài thơ của em làm dở tệ sao !
Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng:
-Thơ của em bài nào cũng hay hết.
Rồi nhìn ông bà Hội Trưởng còn ở phía sau, lấy hết can đảm, Hưng nói trong hơi thở:
-Riêng em, đã là một bài thơ...
Nói xong, Hưng thấy tự nhiên tay chưn luống cuống, mặt đỏ bùng bừng, tim đập thình thịch. Chàng đi một mạch ra cửa, không dám ngó ngoái lại. Lúc đó, Hạnh đứng tựa vào cánh cửa cây, đưa tay chận lấy ngực, mặt mày xám xanh.

Buổi đó cũng là lần cuối cùng Hưng đến nhà nàng. Vài tuần sau, vì một lý do hành chánh đặc biệt, Hưng bị đổi về Bình Dương, một tỉnh nhỏ của miền đông nhiều đồi dốc. Tuy trường mới đẹp hơn, lớn hơn trường xưa, nhưng làm sao nó có thể so sánh được với Hoàng Diệu bùn sình trơn trợt. Làm sao có được những ngày mưa ướt át, để đón đưa người mình yêu đến cổng trường có giàn bông giấy.

Một hôm đang ở phòng họp giáo sư, Hưng nhận được một bức thư gởi từ Ba Xuyên xa xôi, thơ của Hạnh. Mừng quá, chàng mở phong thơ màu xanh lợt mà run tay. Những dòng chữ tròn trịa, đầy đặn được viết trên tờ giấy xanh mỏng những lời thăm hỏi chân tình của người học trò cũ. Lật qua trang sau, Hưng thấy nguyên một bài thơ trường thiên tám chữ. Hưng đọc từng câu, cảm từng lời. Cho tới hai câu cuối, Hưng nghe choáng váng, tim như muốn ngừng đập. Hai câu đó như vầy:
Thầy vẫn dạy bài Việt Văn năm cũ,
Như ngày xưa, riêng đôi mắt em nghe
.
Trời ơi ! quả thật vậy sao ? Hưng đứng lặng hàng giờ để nghe niềm cảm xúc lâng lâng, thấm từng tế bào tim phổi. Ít ra, trong đời dạy học, có được một người nghe chàng giảng dạy bằng cả một tấm lòng tin yêu, cũng là quá đủ !

°°°
Chiếc xe buýt từ từ đậu sát bên lề đường rồi ngừng hẳn. Hưng vịn tay vào thanh sắt lạnh ngắt, chưn dò dẫm từng bước để xuống. Từ nhà ra đến chợ, phải mất hơn bốn mươi lăm phút để đi xe. Trời bây giờ,ø đang vào mùa đông nên lạnh giá. Tuyết rơi khắp nơi. Cả thành phố như bị bao phủ bằng một lớp bột thạch cao dầy, trắng xoá. Hành cây thẳng tắp ven đường bị đông lạnh co ro, đưa lên trời những cành khô, khẳng kheo, trơ trụi. Từng cơn gió lạnh thổi tạt ngang, đưa những hạt tuyết xôm xốp như bông gòn bay rào rào, trên đầu trên mặt. Hưng nghe lạnh buốt như có con dao bén cứa vào da thịt. Bộ áo khoác và đôi giày, xin được ở nhà thờ hơi mỏng và quá cũ không đủ ấm. Tuần lương tới phải rán tiện tặn để mua bộ khác dầy hơn. Ở xứ nầy có lẽ nhịn ăn thì được nhưng nhịn mặc thì không xong rồi.

Đây là mùa đông đầu tiên Hưng phải chịu đựng ở cái thành phố đầy tuyết trắng. Gần hơn một năm trời chờ đợi mòn mõi ở ngoài đảo, chàng được phái đoàn Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cho đi định cư đến đây. Một nơi lạ hoắc, chưa bao giờ chàng nghĩ tới. Cái thân trôi nổi, ừ thì thôi, đâu cũng là nhà. Chàng chấp nhận, không so bì, đắn đo. Đi đâu cũng được, miễn là khỏi phải sống một cuộc đời cực nhục, khổ sở, dưới bàn tay sắt máu, của bọn người vô tâm.

Đường đến tiệm rất gần. Tới nơi, Hưng cởi chiếc bao tay bằng len đỏ, đã có một lỗ lủng nhỏ ở đầu ngón, đẩy cửa kiếng để bước vào trong thương xá Việt Nam. Mỗi tuần chàng đến đây để mua một số thực phẩm cần dùng. Hưng đưa tay phủi bụi tuyềt bám trên tóc trên mặt, giũ sơ qua những hạt còn bám trên aó khoác. Tóc tai rối bù, ướt đẫm. Nhìn xuống đôi giày cao cổ, nó thê lương làm sao ! Tuyết nhão quện với bùn đất biến thành bùn sình, bám vào đế giày nhoè nhoẹt. Đôi giày quá cũ, nước thấm ướt hết cả vớ. Các ngón chưn nghe lạnh ngắt.

Hưng đi thẳng vào trong, mắt nhìn lên các kệ thực phẩm để chọn lựa các thứ cần dùng. Rải rác đây đó, người mua chừng đã khá đông. Tiếng cười, tiếng nói ồn ào, tạo thành một thứ sinh khí Việt Nam. Ở xứ lạ quê người, được nghe và nói tiếng mẹ đẽ là một điều sung sướng. Cần gì câu chuyện hay hay dở, người lạ hay quen...
-Chèng ơi, ở đây mà cũng có trầu cau nữa... Có luôn xác giấy nè.
Có giọng nói của người trẻ hơn:
-Hôm trước có bán măng cụt với chôm chôm. Để ở chỗ nầy ! Mắc quá, thấy thèm, mà không đủ tiền mua.
-Mầy lại hỏi bà chủ tiệm, coi bài tứ sắc để ở đâu, tao nghe nói tiệm nầy có bán, liệu mua năm bảy bộ để dành. Tết nầy rủ mấy bà Gò Công qua đậu chến cho vui.
Hưng đi lần ra phía ngoài. Có mùi son phấn nực mũi. Một bà vừa trạc năm mươi, đứng với một thanh niên mặt mày sáng sủa, cả hai ăn mặc sang trọng. Bà ta đứng trả tiền ở quầy hàng nói với bà chủ tiệm, giọng oang oang, từ xa, ai cũng nghe thấy:
-Ở đây, khoẻ quá hở bà chị ! Có tiền là có đủ thứ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên là có đồ ăn đem ngay tới miệng...
Giọng bà chủ tiệm, ôn tồn:
-Dạ, dạ, chỉ có điều trời lạnh quá. Tôi chịu hổng thấu. Phải chi kha khá một chút, dọn qua Mỹ ở ấm áp hơn...
-Ối ! Hơi đâu mà bà chị lo. Trời nóng thì có máy lạnh, mùa đông thì có lò sưởi. Ra đường mình có áo lông.
Rồi giọng bà kéo dài ra:
-Mấy thứ đó... đâu có bao nhiêu tiền ! Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cũng nhờ có mấy ông Việt Cộng nên mới được qua đây, sống sung sướng như vầy.
Có vài người khách đứng gần, ngước mắt lên nhìn. Người thanh niên có vẻ học thức, nắm lấy tay bà:
-Sao mẹ nói vậy, mình bỏ nước ra đi là tại mấy thằng Việt cộng. Làm sao sung sướng bằng ở bên Sài Gòn, quê hương làng nước...
Rồi như để che bớt cái sơ hở của mẹ, anh ta nói tiếp:
-Xứ Canada nầy, việc ít người nhiều. Kiếm được đồng lương cũng đổ mồ hôi...
Bà chủ tiệm ngó người thanh niên cười cười. Bà khách kia quay qua con, mắng yêu:
-Ối dào, kiếm việc vất vả là mấy người thợ thuyền làm ở hãng xưởng, chứ học cao tới kỹ sư như con thì thiếu gì mấy cái công ty lớn mời, tha hồ mà chọn.

Hưng nghe hai mẹ con đối đáp, khoái chí, bèn làm bộ lựa những món hàng gần đó, để nghe thêm cho dễ. Nào ngờ, hai người đã trả tiền xong, đi mất. Chàng đâm buồn buồn, tính trong bụng định ra về. Ngước mắt lên kệ cao, Hưng vói tay lấy một thùng mì gói. Với thùng mì nầy Hưng có thể để dành, ăn được cả tháng, khỏi mất công mua lặt vặt, vừa tiện việc khỏi phải nấu nướng lôi thôi, vừa rẻ, vừa đỡ tốn tiền. Phía sau lưng có tiếng nói ấm áp của một thanh niên cất lên:
-Hay là em mua cho ba trà Ô Long uống thử coi. Anh thấy bác Tư thích loại nhãn xanh lợt nầy lắm nè. Trà Thiết Quan Âm kiếm không ra.
-Thôi, anh chịu khó đưa em qua phố Tàu, ở bển thế nào cũng có. Tánh ba thích uống trà ngon, ăn sao thì cũng được. Hồi còn ở Sóc Trăng có tiệm Quảng Trân, bán trà nổi danh. Kế bên nhà...
Hưng đương nắm lấy góc thùng mì, nghe giọng nói êm ái của người thiếu nữ, thấy quen quen. Cái giọng nói nhẹ như gió thoảng nhưng âm thanh rõ ràng đó đã nhiều lần nghe qua, làm sao lầm lẫn được. Chàng khựng lại cho đến khi nghe được hai tiếng Sóc Trăng, thì buông hẵn thùng mì trở lại trên kệ, quay lưng lại mà nhìn. Người con gái đứng trước mặt Hưng, quả thật là Hạnh. Không thể là ai khác hơn. Hạnh ngày xưa, bằng xương bằng thịt rõ ràng.
Hạnh mở to mắt:
-Thầy..thầy qua được đây bao lâu ? Sao em không hay biết gì hết ?
Hưng còn đang choáng váng vì cuộc hội ngộ bất ngờ, chưa kịp trả lời thì Hạnh giới thiệu người thanh niên đứng kế bên, giọng hơi ngập ngừng, luống cuống:
-Còn đây là anh Lâm...anh Lâm.
Hưng bắt tay người thanh niên, miệng mĩm cười thay câu chào hỏi. Lâm có vầng trán rộng, đôi mắt thật sáng, cái mũi đẹp, khá cao và thẳng tắp. Lâm thăm hỏi chàng qua hàm răng trắng bóng, đều đặn:
-Thầy đi chợ có thường không ? Tôi với Hạnh tháng nào cũng đến đây một vài lần, vậy mà không được gặp! Ngày xưa Hạnh có được họcvới thầy ?
Hưng nhớ tới hình dáng tiều tuỵ của mình. Khi nãy bắt tay, cái bàn tay của Lâm mềm mại, ấm áp làm sao. Hưng cảm thấy làn da tay mình sần sùi, thô kệch, bữa nay sao nó dầy hơn bình thường.
-Ờ, ờ, tôi mới qua tới, chưa được bao lâu.
Hưng nhìn sang Hạnh. Nàng vẫn dịu dàng, xinh xắn. Trang điểm thêm một chút phấn hồng trên má, một chút son đỏ lợt trên môi, chiếc khăn len quấn hờ lên cổ, trông nàng đẹp đẽ hơn bội phần, quí phái hơn bội phần.

Bất giác Hưng đưa tay sờ lên càm. Sáng nay trời lạnh quá, lo sửa soạn đi gấp nên quên mất việc cạo râu, râu càm đâm tua tủa, rờ nham nháp. Tay Hưng lần lên, đụng phải cái gò má. Cái gò má thiếu thịt, xương lưỡng quyền nhô cao, kết quả của những ngày tháng lao động vinh quang. Năm năm bị đày đọa ác nghiệt ở quê nhà. Một năm trời thiếu thốn chờ đợi héo mòn ở đảo xa, tổng cộng tất cả là sáu năm. Sáu năm lầm than, khốn khó. Thời gian quá dài đủ để choán đầy hết những mùa xuân cuộc đời. Như nụ bông chỉ cần vài giờ có nắng ấm để phô sắc hương, thời gian đó đã bị một đám mây xám, âm u giăng kín. Hưng tự hỏi không biết bây giờ mình còn chút xíu phong độ nào của một ông giáo sư trẻ ngày xưa ?
-Cuộc biến động lớn lao quá. Tôi không biết gì nhiều ở Sóc Trăng.
-Dạ, ba má với em đi từ năm bảy mươi lăm. Đọc báo, nghe tin tức, thấy đất nước tang thương, đổ nát. Ba má em cứ nhắc thầy hoài, hỏi thăm mà không ai biết.

Hưng nghe xót xa. Ông bà Hội Trưởng thường nhắc đến chàng. Hạnh ơi, có bao giờ em nhắc tới tôi, một lần không? Hưng thấy tay chưn mình đâm thừa thãi. Chàng nhìn Hạnh rồi nhìn Lâm. Cả hai đứng bên nhau, tươi mát, yêu đời. Còn chàng, từ ngày đất nước đổi thay, như con cá dật dờ ngoài sông lớn. Cá nước ngọt bị đem bỏ ra biển, gặp nước mặn đã ngất ngư, còn bị sóng dập gió dồi, chịu sao cho thấu. Cái sức sống mới vừa vươn lên sắp đâm chồi nẫy lộc, bất ngờ một cơn phong ba, bão táp đổ ập đến, khiến Hưng như người đau mới mạnh. Tuy đã vượt thoát đền phần đất tự do, chắc phải cần một thời gian khá dài để phục hồi sinh lực cũ.
Sáng nay vô tình gặp Hạnh. Hình ảnh cô bé học trò dễ thương đã trên sáu bảy năm nằm lắng im trong lớp kỷ niệm thật sâu, thật dầy, được khơi bùng dậy. Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng để tưởng rằng mình vẫn còn được trẻ trung như xưa. Cái thời mà mỗi buổi sáng đứng trước kiếng hàng giờ để chải cái đầu, lựa từng cái áo, cái quần, đôi giày, đôi vớ... Những giờ đến lớp với niềm tin trong mắt, với nụ cười trên môi. Những buổi trưa hẹn hò, bước chưn xôn xao trên hè phố. Cái thời mà dòng máu yêu đời luân lưu trong huyết quản, bàn tay tưỡng có thể ôm gọn được tương lai.

Thấy Hưng nhìn mình đăm đăm, Hạnh bối rối cúi đầu, mắt nhìn xuống mũi giày, một tay ôm chặt lấy Lâm. Hồi lâu, nàng mới hỏi qua nụ cười gượng gạo:
-Hồi nãy tới giờ gặp thầy mừng quá, quên mất hỏi thăm, chắc thầy qua đây một lượt với cô ? Chắc cô cũng người Bình Dương, vì ở trên đó người đẹp nhiều lắm...
Hưng khựng lại một hồi lâu rối nhìn bao quát cả tiệm, thủng thỉnh trả lời:
-Ờ, ờ, tụi tôi quen nhau từ hồi còn nhỏ xíu, Quên mất hỏi coi người tỉnh nào. Chắc Rạch Giá, Cần Thơ, Tây Ninh hay Biên Hoà gì đó. Đợi ngày làm đám cưới thì Việt cộng vô. Hai đứa bị đày đọa khổ sở. Tôi rủ vượt biên, bả không chịu, khăng khăng ở lại.
Hạnh chớp chớp mi mắt, vẻ xót xa, an ủi:
-Thôi, lần lần thầy ổn định đời sống rồi làm giấy bảo lãnh cho cô qua..
Hưng nhăn mặt lắc đầu:
-Cô không chịu đi đâu. Tôi đã viết thơ nhiều lần thúc hối nhưng không cách gì lay chuyển được. Loay quay một mình buồn quá. Đôi lúc thấy đời sống nhàm chán vô nghiã. Không lý suốt đời chỉ còn biết có đi làm, đi chơi, đi ăn, đi ngủ...
Rồi Hưng ngậm ngùi:
-Ở đây một năm sáu tháng giá buốt... Nhìn khi nhìn tuyết rơi ngập trời mà thèm một chút nắng ấm quê hương, nơi đó đã một thời, tôi tìm thấy được mùa xuân.

Wednesday, March 19, 2008

BÌNH DƯƠNG, MỘT NGÀY TÁI NGỘ.



Buổi sáng Chúa Nhựt, đầu năm dương lịch 1979, tôi ngồi tiếp chuyện với bà Hai ở phòng khách. Từ Búng lên Bình Dương, bà nôn nả báo cho tôi hay một tin vui. Đó là cô Hà, con gái út của bà, vượt biên thành công qua bức điện tín đánh về từ một phương trời xa. Bà vui mừng nét mặt rạng rỡ. Cầm miếng giấy nhỏ màu xanh lợt trong bàn tay run run, bà nói thì thầm bên tai tôi như sợ người khác nghe được:
-Mầy coi nè, cái con nhỏ thiệt không ý tứ. Chiều hôm qua nhận được dây thép, xé ra đọc rồi tao muốn nghẹt thở, xỉu luôn. Ổng nghe ồn ào, chạy ra coi lại, thì thấy nói nóù tới Mã Lai bình yên. Thiệt hú vía ! Mầy biết tại sao không ? Nó hà tiện, viết hai chữ "bình an" dính lại làm một. Tao ba chớp ba sáng, đọc lộn là "bị nạn"... Mấy tuần nay, tao với ổng trông đứng trông ngồi. Có tin, run quá, quáng mắt đọc không ra chữ. Nói liền một hơi, rồi ngồi thở một hồi, bà chắc lưỡi tiếc cho tôi:
-Phải chi hồi đó mầy tính được, đi chung một chuyến với nó là xong rồi !

Tôi mừng cho cô Hà thành công tới nơi an toàn, trong bụng cũng thấy tiêng tiếc, phải chi liều gan một chút, đi đại thì bây giờ khoẻ rồi. Cô Hà dạy chung trường với vợ chồng tôi và cùng bị cho nghỉ việc một lượt, vì cái tội lúc trước làm hiệu trưởng một trường quận. Cô hiệu trưởng còn trẻ măng chưa chồng. Có anh bạn đồng nghiệp thầm thương trộm nhớ mà không dám nói ra. Trước khi đi, cô tâm sự từ giả -trách cứ cái anh chàng Thạnh cù lần, đàn ông con trai gì mà nhát như thỏ đế !
-Ờ ờ, anh Thạnh e ngại bị cô từ chối, ở tỉnh nhỏ, người ta nói ra nói vô khó lòng.
"Xưa kia anh ở cùng làng. Bởi anh chậm bước nên nàng đi xa". Bây giờ nhớ tới vụ vượt biên, thấy câu hát đó quá đúng đối với tôi. Cô Hà đã thoát được, còn tôi, tới chừng nào ? Đàn bà con gái, người ta chưn yếu tay mềm còn dám liều mạng như vậy, trong khi đó mình thân dài vai rộng mà cứ do dự, lừng khừng thì bao giờ mới tính chuyện lớn được. Dầu sao thì cô ấy, một thân một mình, cũng dễ tính. Còn tôi thì vợ con đùm đùm đề đề, thằng Tâm Bi mới có mười tám tháng, còn quá nhỏ để giải nắng dầm sương, vượt qua bao sóng gió, rủi có bề gì thì sao ? Nhiều đêm trằn trọc, nghĩ tới nghĩ lui, tôi bàn với Duyên:
-Vợ chồng mình khó mà sống yên thân. Cái thế bắt buộc phải ra đi, nhưng hoàn cảnh bề bộn của mình, anh tính không ra.
Duyên khuyến khích tôi nhưng vẻ mặt buồn buồn:
-Hay là anh đi trước, mẹ con em ở lại tính sau!

Làm sao mà tôi chịu như vậy. Tôi và nàng mới cưới nhau, vừa có được thằng con trai nhỏ. Cuộc đời đầy bất trắc, quê hương đất nước kể như tiêu tan, cái tình yêu gia đình chỉ còn lại có chút xíu đó, làm sao dám liều lĩnh phiêu lưu, thành ra cứ hẹn lần hẹn lữa, mãi cho đến hôm nay, tôi vẫn còn ngồi thừ trên ghế. Bà Hai trước khi ra về, còn dặn dò:
-Mầy tính gì thì tính lẹ lẹ đi, người ta lấy ghe lấy tàu đi từ từ hết, đến lúc muốn đi thì không còn chiếc nào, khi đó làm sao xoay trở ?
Tôi gật đầu nói nhỏ:
-Ngày nào con xuống Búng thăm hai Bác, là ngày đó con từ giả... Con cũng muốn quyết định dứt khoát nhưng có cái gì níu kéo lại. Phải rời bỏ cái tỉnh Bình Dương nầy, buồn lắm bác Hai ơi !
°°°

Tôi dẫn cai xe đạp ra ngoài, cái xe có gắn thêm cái yên nhỏ để thằng Bi ngồi đằng trước. Nó còn quá nhỏ nên phải ràng buộc cẩn thận. Trên đầu tôi đội cái nón kết đỏ bầm, thứ nón của lính nhảy dù, còn Bi thì đội nón vải trắng có hình mỏ neo của lính thuỷ, có quai để khỏi rớt. Tôi muốn chở con đi một vòng thành phố, để nhìn cho hết, cho kỹ, cái nơi mà tôi đã sống gần nửa đời người. Nơi đó, có buồn có vui, có những hình ảnh thân yêu, có những kỷ niệm thời thơ ấu. Như có một sợi dây vô hình ràng buộc, trái tim tôi như thắt lại khi phải quyết định xa quê.

Trưa đó, trời nắng gắt, hai dãy phố chợ như bị bỏ vô lò mà hấp. Hơi nóng bốc lên hừng hực từ các mái ngói, mái tôn, mặt nhựa đen mốc, những lề đường xi măng khô cứng. Trước nhà bây giờ là giang sơn của mấy bà bán gạo lậu. Họ ngồi đông nghẹt, chen lấn nhau, trước mặt là những thúng gạo trắng đầy vun, các đống khoai đỏ, vàng đổ ngổn ngang như đất đá vụn. Rải rác đây đó, giống gánh vương vải. Giờ nầy khách mua đã thưa. Có vài cán bộ áo trắng, bộ đội áo kaki màu cứt ngựa xanh đùng đục, mang dép râu. Có người dắt xe đạp treo tòn ten bó rau xanh dờn, đi chen lấn các bà nội trợ, áo bà ba đen, nón lá. Tự dưng nơi đây trở thành cái chợ trời ngang xương. Ban đầu có vài ba người đàn bà lạ mặt ngồi bán các thứ khoai, gạo, đậu, nếp. Họ bày bán trên cái lối đi trước nhà. Chợ thì ở tuốt đàng kia, sát cạnh bờ sông. Từ ngày mấp ổng bỏ rừng về thành phố, toàn dân miền Nam đâm thất nghiệp. Vợ con công chức quân nhân chế độ cũ, chồng cha bị đày đi một nơi khỉ ho cò gáy nào đó, ở nhà túng quẩn, phải bương chải tảo tần, kiếm kế sinh nhai, hầu sống còn qua ngày. Họ trở thành bạn hàng buôn thúng bán bưng bất đắc dĩ. Tìm chỗ ngồi không được ở đàng kia, thôi thì giành dân lấn đất đằng nầy. Đằng kia là chợ mà đằng nầy là cái hành lang lát gạch bông bằng phẳng của dãy phố nhà tôi.

Phía bên kia là công viên nắng cháy xác xơ, hồ nước cạn khô, đáy đầy đất đá, bãi cỏ loang lổ úa vàng vì không người chăm sóc, chỉ còn trơ lại một cây khuynh diệp cằn cỗi lưa thưa, đứng lẻ loi ở góc sân. Tôi dẫn cái xe băng ngang qua đường, đứng dưới bóng cây, nhìn trở lại bên nhà, nói cho Bi nghe, mặc dầu biết nó không hiểu:
-Con nhớ nghe, cái nhà nầy là nhà của Nội,. Cả đời ông nội làm việc cực nhọc vất vả mới tạo dựng được. Ba được nuôi nấng lớn lên ở đây, con cũng vậy. Hồi nhỏ ba ưa đi chơi, bị ông nội lấy dây nhợ cột chưn vô cái cửa sắt. Mỗi khi gần Tết, ba với chú Sáu, chú Bảy con phải lau chùi hết mấy cái cửa đó. Cực lắm mà vui. Mấy chậu sứ Thái Lan đầy bông đỏ để trên lầu, mua ở vườn ương cây bên Thủ Đức, đem về ba chiếc ra từng chậu nhỏ, phải chăm sóc liên tục trong mấy năm mới được xum xuê như con thấy...

Nghe tôi thì thầm, thằng nhỏ có biết gì đâu, u ơ mấy tiếng trong miệng nhỏ xíu. Tôi nhìn cái bảng hiệu tiệm của ba tôi. Những chữ bằng cây to, dầy, sơn trắng, được cưa đục khéo léo, đặt trên nền nâu đậm, vẫn còn sáng sủa nổi bật như cái ngày đầu tiên thợ hồ đến gắn vào tường. Lúc đó tôi vừa mới lớn, ba tôi muốn có một cái bảng hiệu coi cho được. Cái bảng cũ trông thô sơ, quê mùa. Tôi phải bỏ ra một thời gian dài, đi trên các đường phố ở Sài Gòn để ăn cắp kiểu vở. Rốt cuộc chọn kiểu nầy. Tôi đã đặt ông thợ mộc già, người Bắc, điếc tai ở cầu Bình Lợi làm. Nói hoài, ông không hiểu, ra dấu đến mõi tay, cuối cùng phải dẫn ông đến cái tiệm có bảng hiệu đẹp đẽ kia, rồi xin phép chủ nhà, đo lấy kiểu mẫu.
Mỗi năm gần Tết, tôi phải bắt thang leo lên, lấy vải thấm nước lau sạch từng chữ cái. Hiệu tiệm và tên ba tôi rất dài, phải lau cả buổi mới xong. Bây giờ, muốn lau cũng không được. Làm sao còn được cái công tác cực nhọc mà sung sướng đó nữa rồi!

Cha con tôi lần ra tới bờ sông, theo con đường Bạch Đằng nhỏ hẹp, có cái cầu tàu mục nát cạnh chợ cá, những hàng cây dương già gốc nổi u sần sùi, thân ngả nghiêng. Gió từ sông thổi lên nhè nhẹ, mang theo mùi tanh tanh của sông nước. Ánh nắng chói chang lấp lánh trên làn sóng bạc, phản chiếu như hàng trăm hàng ngàn chiếc gương nhỏ lăn tăn. Từng dề lục bình xanh xanh trôi rập rềnh không biết về đâu. Cuộc đời cha con tôi bây giờ sắp sửa trôi dạt như đám lục bình nầy. Trưa nay đứng bên dòng sông chảy ngang qua chợ, trời nóng hừng hực, cảnh vật lờ đờ, lặêng thinh không thơ mộng chút nào, vậy mà tôi đâm nhớ cái câu ca dao thời thơ ấu, nghe má đưa em trên võng:

Ra đi là sự đánh liều
Mưa mai nào biết, nắng chiều nào hay
.

Cái câu nầy hơi kỳ lạ. Tôi nghĩ quản nghĩ quanh. Những hình ảnh vụn vặt, chắp nối. Không hiểu tại sao tôi cứ nghĩ đây là câu hát kể lể tâm sự của một cô thôn nữ nào đó vì tiếng gọi của yêu đương mà dứt khoát ra đi lấy chồng. Theo chồng hay theo trai ? Điều đó đâu có gì quan trọng, cái quan trọng là họ yêu nhau. Đã yêu nhau rồi thì tương lai ra sao cũng mặc kệ! Buổi sớm, buổi chiều, nắng cháy hay mưa dầm, làm sao biết trước ? Giữa tình yêu nồng nhiệt, cuống quít và cuộc sống lạnh lẽo, buồn tênh, phải chọn một. Cô đã chọn trong cái tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bồn chồn. Tôi cũng y như cô ta, nhưng cái tình của tôi có khác đôi chút. Phải rồi, khác một chút xíu, ở chỗ cô tự nguyện ra đi. Còn tôi thì ở cái thế bắt buộc phải xa lìa. Tôi cúi đầu nhìn xuống thằng Bi, rồi chỉ cho nó cái cầu tàu bằng cây cũ kỹ đã hư mục, một phần còn gác trên bờ hàng cột xiêu vẹo, một phần chìm sâu dưới nước.
-Con ơi, hồi nhỏ tám, chín tuổi, ba bì bà bì bỏm lặn hụp, tập lội ở cầu tàu, chỗ gần cây dương cụt đầu nầy sâu lắm, có lần hụt chưn tưởng bị chết đuối. Năm mười hai, mười ba tuổi, ba đi chặt trúc làm cần, uốn căm xe đạp làm lưỡi câu để đi câu lươn, không mang dép guốc nên da chưn bị nứt nẻ, đất sình bùn dơ dáy, ăn lở loét, phải nhờ bà nội lấy bã trầu đắp cho mới hết...
Để trả lời, thằng nhỏ chép miệng ư ư... bàn tay mủm mỉm như củ khoai mì, quơ quơ như muốn chụp lấy vật gì trước mặt. Tôi nhìn lên phíc bên kia đường. Ty Bưu Điện cũ kỷ già nua được xây cất từ hồi Pháp thuộc, mái ngói đen mốc đầy rong rêu, tường vôi loang lổ, chỗ vàng chỗ xám, cạnh tường dây leo mọc chằng chịt, đứng trơ trọi bên bờ sông như một ông ký về già lẻ loi, buồn thảm kéo lê cuộc đời quạnh hiu. Tôi còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên được sai đi bỏ thơ, ở nhà dặn dò kỹ lưỡng, mua con cò mười lăm cắc để dán lên bao. Tôi đến nơi đây, rụt rè hỏi mua được tới mươi lăm con. Mừng rơn, nghĩ rằng bửa nay nhà nước bán rẻ, sướng quá, le cái lưỡi thiệt dài, thấm nước miếng dán một con vô bao, cẩn thận đem bỏ vô thùng, xong rồi, đem mười bốn con còn lại, về nhà khoe rùm beng. Cũng cái thùng thơ rỉ sét nầy đã chứng kiến cảnh tôi bỏ từng bức thơ màu hồng yêu đương ấm áp, từng bức thơ màu xanh hy vọng tương lai, gởi đến một cô bạn gái đẹp đẽ dễ thương nào đó mà chưa quen, tay run run, trống ngực đập thình tịch, mắt lấm lét ngó trước ngó sau, sợ lũ bạn quen bắt gặp.
Cái thơ đã bỏ vô thùng mà còn ngó hoài, cứ lo sợ mất -xa sông cách núi lở vời. gởi thơ sợ lạc gởi lời sợ quên.

Tôi đạp xe vòng qua bên kia chợ. Người buôn kẻ bán lưa thưa. Đúng là cảnh chợ chiều. Mũi tôi ngửi được cái mùi chợ cá quen thuộc. Mùi khô cá mặn, mùi mắm, mùi củ cải muối, muì tro diêm, mùi đường thẻ, mùi thuốc bắc...và hàng trăm thứ mùi khác trộn lẫn nhau, quện lấy nhau, tạo cho không khí nơi đây có một cái gì gần gũi thân yêu. Tôi đã hít thở mấy chục năm qua, từ thưở bé thơ cho tới khi khôn lớn. Cái hơi hướng đó nó đã ăn tận vào buồng tim thớ phổi. Tôi tin chắc rằng nếu phải xa nơi đây, tạm ngụ ở một phương trời vô định nào đó, tôi vĩnh viễn không bao giờ tìm thấy được cái dư vị của những ngày thơ ấu.

Đêm đêm cánh rụng lầu ngà
Một trời ly biệt để già nhớ thương
(Vũ Hoàng Chương )

Chiếc xe lăn bánh chầm chậm trên đường phố. Bên nầy là đường Nguyễn Thái Học, bên kia là Đoàn Trần Nghiệp. Cũng thời là nhà cửa phố xá ngày xưa, nhưng có vẻ gì tiêu điều xa vắng. Mới bốn năm, mưa nắng đã làm cho gạch vôi ẩm mốc xám đen, tang tóc buồn thãm. Nhìn những bước chưn người đi lại trên hè phố, tôi như thấy được nỗi chịu đựng đầy cay đắng trong cái dáng hấp tấp, vội vàng hay ngập ngừng, đắn đo. Ôi ! Những người dân vô tội đáng thương của một đất nước "anh hùng". Trên đường Trưng Vương, tiệm vàng Tín Thành cao ba từng bị tịch thâu, được đổi thành Phòng Y tế Thị Xã. Đã gần xế chiều vậy mà bịnh nhơn vẫn còn kiên nhẫn sắp hàng, đứng dài ra tới ngoài sân. Nhiều em bé trơ xương nằm lả người thiêm thiếp trên tay mẹ. Nhiều cụ già khăn áo bạc màu hom hem, còm cõi, nhẫn nhục sắp hành chờ đợi tới phiên mình.

Qua đường Hùng Vương có trường trung học Nguyễn Trãi thương yêu ngày xưa, tôi hàng ngày hai buổi đi về, với bao thầy bạn thân thương, bao mộng mơ một thời mới lớn, bây giờ trở thành Phòng Giáo Dục. Hàng dừa xanh mát rủ bóng trong sân, đã được đốn đi thay vào đó là sân đánh bóng chuyền, treo cái lưới rách giăng ngang, giành cho công nhân viên chức nhà nước chơi đùa. Rải rác có các cán bộ dép râu nón cối, gương mặt lầm lầm lì lì. Tôi nghe đau nhói trong tim. Có cái gì mất mát tổn thương quá lớn...Như một thứ tình yêu rạn nứt.

Đất đổi hoa màu, nhà đổi chủ
Trâu quên mục tử, ngựa quên chuồng
. (Nguyễn Bính)

Không, cảnh tuy đổi thay, người đổi thay nhưng lòng tôi không thay đổi. Dầu người ta có bắn phá, đập nát, đốt cháy hết cả cái tỉnh Bình Dương nầy nhưng trong tôi vẫn còn hoài, còn huỹ hình ảnh chợ Phú Cường bằng bê tông cốt sắt đồ sộ với cái tháp đồng hồ cao sừng sững, dòng sông Sài Gòn uốn khúc lặng lờ trôi từ thành Săng Đá xuống, mang theo trong dòng vẫn đục từng dề lục bình xanh xanh, trổ bông tim tím, dốc Ông Cò thoai thoải, im mát hai hành cây sao cao vút, dốc nhà thương có trường Nam Tỉnh Lỵ Châu Thành, có nhà thờ bằng đá hoa cương, mỗi khi hè đến, hàng phượng vĩ trổ hoa đỏ rực, rền rền tiếng ve.

Trong đầu óc tôi những ngày tháng ngây thơ đó thần tiên quá. Những hình ảnh như vậy ngàn đời trong tôi không phai nhạt chút nào. Nó đã thấm vào tim óc, vào từng tế bào từ lâu lắm. Chắc từ hồi còn ở truồng tắm mưa. chạy lượm xoài, lượm ổi rụng trong những cơn mưa giông, giành giựt nhau la hét vang rân từ đầu làng cho tới cuối xóm.

Ôi, Bình Dương thân yêu của tôi, chỉ vài ngày nữa thôi, tôi phải bắt buộc đứt ruột mà xa lìa. Ở đó tôi có biết bao nhiêu bạn bè mà gương mặt xanh xao, màu rau nhiều hơn màu thịt cá. Ở đó tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu, bao gắn bó của một thời mộng mơ, bao tin tưởng của một thời thành đạt. Làm sao tôi có thể ra đi mà không bịn rịn, xót xa!

Tôi cũng muốn đi một vòng thiệt xa, để nhìn cho hết những con đường dốc khúc khuỷu quanh co, bùn sình trơn trợt của các hầm đất sét ở Lò Chén, các con đường làng kẻo kẹt tiếng đọt tre đong đưa miệt Xuân Hiệp, những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo im mát bóng cây ăn trái miệt Giếng Máy, Cầu Ông Đành, những liếp rau ngát xanh, những bờ nước đầy rong đuôi chồn trong vắt miệt Phú Văn rồi vòng lên các ngọn đồi cao miệt Bà Lụa để nhìn trở lại dòng sông Sài Gòn chảy uốn khúc lặng lờ qua tỉnh lỵ. Tôi muốn gặp hết tất cả những người quen biết, tất cả bạn bè thân yêu, để nói câu giả biệt. Nhưng làm sao, làm sao được!

Tôi không thể nói gì hết. Gần trên bốn năm nay rồi tôi sống im lặng, vật vờ thu mình như một cái bóng mờ, lặng thinh câm nín. Một chút động tĩnh cũng không dám. Người ta hoài nghi, xoi mói, rình mò. Tôi không thể nói bất cứ điều gì, dầu chỉ là lời từ giả. Nếu nói được thoải mái thì đâu cần phải ra đi làm gì ! Đúng rồi, nếu nói được thoải mái thì đâu cần phải ra đi !!!

Giờ nầy dưới ánh nắng thoi thóp của buổi chiều sắp tắt, tôi nhìn trở lại Bình Dương của tôi, một lần. Một lần cho thật rõ, thật kỹ những cảnh vật, màu sắc, âm thanh, mùi vị... Tôi muốn ôm hết, thu hết, ghi nhận hết trong tim, trong óc, bởi vì tất cả sẽ vĩnh viễn mất đi khi tôi cất bước lên đường. Mai kia khi tôi đi rồi thì tương lai kể như mù mịt, quá khứ trở thành chiêm bao ! Bình Dương bây giờ, Bình Dương của ai ?

°°°

Chuyến xe đò quốc doanh Đồng Hiệp sơn đỏ, chuyến cuối cùng trong ngày đưa vợ chồng tôi rời khỏi tỉnh. Cái bến xe chật hẹp nằm cạnh trường trung học Bồ Đề của tỉnh lỵ buồn hiu, ảm đạm, dưới ánh nắng thoi thóp của buổi chiều sắp tắt. Màu nắng vàng vọt, lẫn trong làn gió thoảng cái hơi hướm của biệt ly. Lòng tôi chùn xuống, nhấp nhô theo từng căn nhà, từng miếng vườn, từng khúc quanh của con phố nhỏ. Tất cả đối với tôi quen thuộc quá. Ngang qua nhiều xóm làng hai bên đường, nhà nhà còn treo đầy cờ đỏ sao vàng của ngày lễ vừa qua chưa kịp gỡ. Cũng có thể vì chưa có lịnh nên chưa ai dám lấy xuống. Chiều nay đâu có giông bão mà sao lòng tôi đầy mây giăng, trời không mưa mà mắt tôi ươn ướt. Tôi cố nhoài người qua khung cửa xe để nhìn cho rõ, cho kỹ, nghe từ trong cõi lòng câu hát ngày xưa:
"Ra đi là sự đánh liều, mưa mai nào biết nắng chiều nào hay. "

Bây giờ là nắng buổi chiều, tôi sắp phải đương đầu với những cơn mưa giông buổi sáng. Liệu tôi có đủ nghị lực để chống chỏi với gió táp mưa sa chăng ? Lò dò tôi mở cái xách tay dưới chỗ ngồi, để tìm cái khăn nhỏ. Tôi thấy một hủ dầu cù là lớn, chai Nhị Thiên Đường, mấy gói thuốc cảm, thuốc đau bụng, cùng một vĩ thuốc ói mữa... Như một dòng suối tràn không chặn lại được, nước mắt tôi tự nhiên trào ra, ràn rụa. Những giọt nước mắt chảy dài trên gò má, rơi xuống miệng, mặn đắng. Cũng may tôi có mang cái kiếng đen, nên không ai thấy. Mấy món tôi vừa thấy được đó là của má tôi, hồi sáng nầy, chính tay bà đã để vô.

Chuyến đi quá hấp tấp nên tôi không kịp chuẫn bị gì hết. Lúc gần trưa hai đứa em, Tuyết và chồng nó từ Sài Gòn về. Hai đứa chun vô nhà bằng cổng sau nhanh như một luồng gió, hấp tấp báo cho hay là chuyến vượt biên sắp khởi hành, vợ chồng tôi và các em còn lại ở Bình Dương, phải xuống Sàigòn ngay trong chiều nay để sáng mai đi Bạc Liêu, chuyến xe sớm nhứt trong ngày. Làm sao kịp, tuy đã biết là sẽ đi nhưng cứ tưởng là ít nhứt phải năm, ba tuần nữa. Tự nhiên tay chưn quýnh quáng, tôi chạy ra nhà trước, đứng nhìn cái bàn viết, cái tủ rồi ra sau, vô phòng ngủ, nhìn cái giường, cái tủ áo, rồi chạy lên lầu, tần ngần đứng lặng nhìn cái tủ sách. Dọc theo tường, cạnh bàn thờ tổ tiên giữa nhà, là cái tủ sách bằng cẩm lai thiệt lớn. Đời tôi đó ! Cái tủ sách hằng nâng niu, ôm ấp, giữ gìn, bây giờ nó đã trống trơn. Sách vở bị tịch thu từ những năm trước. Từng đoàn người lạ mặt, thô lỗ, túa vô nhà, lục lọi, bươi móc tứ tung, cuối cùng bưng ra xe từng chồng sách vở, tạp chí, tranh ảnh đủ loại. Họ đã rứt đi từng cõi lòng tôi. Trên mấy ngăn đầy bụi, bây giờ chỉ còn lỏng chỏng năm ba bộ sách chữ nho xưa, vì không đọc được nên họ quăng bỏ lại. Đây đó phất phơ vài màng nhện mỏng, bụi bám giăng giăng. Đời tôi không thể thiếu sách vở. Đi đâu thì đi, làm gì thì làm, cũng phải có một cuốn kế bên. Tại sao không lựa một cuốn đem theo làm kỷ niệm ? Sách gì cũng được. Người ta vượt biên đem theo vàng bạc, ngọc ngà, châu báu, tại sao tôi không đem theo sách ?

Quyết định xong, tôi lướt nhìn một lần chót những tựa sách thân yêu. Bộ Khang Hi tự điển dầy mo để cạnh bộ Tứ Thơ bìa đỏ, in hình cỗ chiến xa ngựa kéo, bên trên có che cây lọng tròn, quyển Dịch Kinh Bạch Thoại Tân Giải, Thi Kinh Bạch Thoại Chú Giải bìa đen, giấy mỏng in thạch bản. Mấy quyển tiểu thuyết Đường Cung Nhị Thập Triều, Thanh Cung Thập Tam Triều, Tam Quốc Chí, Hồng Lâu Mộng, Lục Dã Tiên Tung, Liêu Trai Chí Dị, Đường Thi Tam Bách Thủ nằm đứng ngã nghiêng bên cạnh mấy cuốn Trung Quốc Văn Học Sử Giản Yếu, Cổ Văn Quan Chỉ, Cổ Văn Bình Chú, chữ đồng nhỏ như con kiến. Tôi rờ rẫm từng cuốn, từng cuốn, rồi cầm lên bộ Từ Nguyên. Đó là bộ tự điển được in ở Thượng Hải Tiêu Cục, tôi đã mua ở Chợ Lớn, lúc mới bắt đầu học chữ nho với giá rất mắc, bìa đóng bằng vải dầy, giấy trắng mịn, mỏng tanh. Nhưng lại để xuống. Hai quyển thượng và hạ, mỗi quyển trên cả ngàn trang, nặng quá. Tuy rằng nó quí thiệt, nhưng làm sao ôm xách đem theo.

Nhìn những quyển nầy, tôi như thấy được những ngày tháng ở Văn Khoa Nguyễn Trung Trực, ở Sư Phạm Cộng Hoà. Những ngày tháng sống đời sinh viên hạnh phúc biết bao nhiêu! Ở đó tôi có được những bạn thân, những vị thầy quí mến. Thầy Lê Ngọc Trụ đơn giản trong nếp sống của người học giả, lúc nào cũng thoải mái, cặp kiếng già thường xề xệ trên sóng mũi, cái mũi lớn sần sùi, đo đỏ như trái cà chua. Ngày nhập học, tôi đã lầm thầy với ông tùy phái, đến khi vào lớp mới biết mình đoán người qua cách ăn mặc là ngu ngốc hết sức. Từ đó tới sau, lúc nào tôi cũng nhớ hoài câu " ngọc trụ bình thiên ". Thầy Nghiêm Toản mập người, lùn thấp, dáng đi bệ vệ, miệng hơi hô, tánh chững chạc, nghiêm nghị mà ôn hoà. Tôi chưa bao giờ thấy thầy lộ vẻ nóng giận. Ngồi dưới bàn học nhìn lên, dáng vẻ thầy từ tốn, thong dong. Thầy Nguyễn Đăng Thục, ốm cao dong dỏng, lòng bàn tay đỏ như son, càng giảng càng hùng hồn lưu loát. Có điều môn Triết Đông Phương sao mà hơi khó hiểu rồi cuối cùng thành ra không hiểu! Tôi vốn suốt đời nghe tới môn nầy là sợ. Cụ nghè Nguyễn Sĩ Giác thiệt ốm, thiệt nhỏ và thiệt già. Có thể cụ đã trên chín mươi rồi không chừng, người cụ mỏng manh, nhẹ hửng. Mắt cụ hầu như gần loà, mỗi lần đọc chữ phải dùng kiếng lúp. Cụ cử Thẩm Quỳnh tuy tuổi cũng đã cao nhưng còn tráng kiện, lúc nào quần áo cũng phẳng phiu. Suốt mấy năm học, tôi chưa bao giờ thấy cụ ngồi. Có anh bạn phụ đề Việt Ngữ -cụ Quỳnh không ngồi vì sợ quần nhăn! Mỗi lần nói chuyện với cụ là phải dùng chữ "bẩm" chớ không nên dùng chữ "thưa" vì như vậy, mới đúng là con nhà gia giáo. Hỏi ra mới biết, có một thuở cụ ngồi Tổng Đốc Hà Đông ! Cụ Vũ Huy Chiểu, đậu Tú Tài kép nhưng tài hoa rất mực, tuy đôi mắt đã lèm nhèm nhưng mỗi lần cụ viết xong một bài văn chữ Hán trên bảng đen, tôi nhìn say mê ngây ngất. Những nét chấm, phết, sổ tung hoành, bay bướm, đẹp như những lá tre đan vài nhau...

Ôi ! tuổi hoa niên thoáng nhanh như cơn gió. Mới đây ngày nào mà đã gần hai mươi năm. Tôi cầm lấy hết cuốn nầy tới cuốn kia, cuối cùng rồi chọn lấy bộ sách bói của gia đình. Đó là một bộ sách xưa lắm rồi, củ kỷ, tả tơi. Không biết từ đời nào, trong nhà đã có bộ sách nầy, khi lớn lên đã có nó trên bàn viết của ba tôi. Sách gồm có sáu cuốn mỏng nhỏ, in bằng bản cây khắc tay, nét chữ rất thô sơ, giấy bạch mỏng tanh, xếp đôi lại làm một tờ, màu giấy đã ố vàng ngà ngà, mối mọt ăn lủng nhiều chỗ thành những đường ngoằn ngoèo, đen đủi. Đó là quyển " Tăng San Bốc Dịch" của Dã Hạc Lão Nhơn. Tôi bèn cầm xuống nhà dưới, kiếm giấy ni lông bao lại thành nhiều lớp, dùng bàn ủi đốt cho dính khắn các mối ráp, nếu có bị nước biển thấm vào, nó cũng không mục được. Bộ sách đã lâu năm lắm rồi, không thể để cho nó hư rách thêm. Các quyển khác, có tiền có thể mua lại được, ở Hồng Kông, Đài Loan thiếu g! Quyển nầy thì không. Cái giá trị không phải là ở nội dung của nó mà là kỷ niệm của gia đình. Đã bao lần ông tôi, bác tôi, ba tôi, đã cầm lên, lật ra coi tới coi lui, ngâm nga từng câu phú câu thơ, ... rồi bây giờ tiếp tục tới tôi nữa. Nếu để lại, mấy trăm trang giấy bạch chỉ đủ cho mấy ông ghiền dùng quấn thuốc hút trong vài tuần!

Lúc đó thì Duyên vừa ở trường về. Tôi bèn cho hay chuyến đi. Nàng nghe tin như từ cung trăng rớt xuống, cũng như tôi ban nảy, nàng không biết lấy gì bỏ gì. Cuối cùng rồi hai vợ chồng gom góp chút đỉnh quần áo, tiền bạc, đồ vật dụng tùy thân cần thiết hàng ngày. Nhiều nhứt là thuốc men cho đứa con trai nhỏ, thằng Tâm Bi mới vừa tập đi lẩm đẩm. Món nào cũng tiếc, muốn mang theo hết. Mà làm sao được, đi trốn chớ bộ đi du lịch sao ! Khi hai cái giỏ xách tay của tôi và Duyên đã đầy, sắp được đóng kín thì má tôi từ trong phòng đi ra, cầm một mớ thuốc nhét vô thêm, miệng dặn dò:
-Hai con rán giữ mấy món thuốc nầy. Đi đường xa, bịnh hoạn lôi thôi, có nó cũng đỡ, hổng có ba mầy với tao theo, rủi tụi bây đau yếu, không biết rồi làm sao xoay trở ?

Má tôi như vậy đó, lúc nào bà cũng coi tôi như còn nhỏ xíu, thấy có bổn phận phải chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ, ngay cả khi tôi đã có vợ có con. Nói xong, bà giằng lấy thằng Bi, ôm chặt nó vào lòng. Tôi nhìn lên trần nhà, mấy ngọn đèn ống trắng hình như không còn song song mà chúng chập choạng đâm xiêng vào nhau. Ba tôi đứng cạnh bên hút thuốc liên miên. Ông bất động như pho tượng, im lìm không nói năng. Có lẽ hình ảnh tôi bồng con đi vượt biên trưa nay, giống y như hình ảnh bốn mươi năm về trước, từ bờ sông Dương Đông của hải đảo Phú Quốc xa xôi, ông đã ẳm tôi theo ghe bầu mà về đất liền để chạy giặc Nhựt Bổn. Tôi nghe đau nhói trong lòng. Căn nhà rộng rinh, từ lâu rồi nó đã trống trơn. Cũng may là còn có anh em tụi tôi, quây quần ấm áp. Bây giờ xúm rủ nhau đi như đàn chim tứ tán, xao xác bay lìa tổ. Cái tổ rộng thênh thang chỉ còn có hai con chim già ngơ ngác, bơ vơ. Rồi đây ai lo cơm nước, ai đỡ đần việc nhà việc cửa, bịnh hoạn ai lo chăm sóc thuốc thang?

Ba má tôi đó, hai ông bà già da dẻ nhăn nheo như vỏ cây sao, cây dầu, lưng còng gối mõi, sống đã trên bảy mươi năm trong cái cuộc đời đau khổ đầy nước mắt nầy. Bây giờ một lần nữa, chứng kiến bầy con cháu đứt ruột ra đi để đến một phương trời xa xôi nào đó, mà tương lai chưa biết thế nào ?

Tôi bất chợt ôm lầy hai người mà khóc ngất như một đứa con nít lên ba. Những dòng nước mắt trào ra như suối, không kìm lại được. Ba tôi nói trong nỗ nghẹn ngào:
-Để tụi bây đi, tao đứt từng khúc ruột, nhưng biết làm sao bây giờ " -người ta không để cho gia đình mình sống yên.

Ôi " Tình cha mẹ thương con để đâu cho hết. Bây giờ ngồi trên xe, tôi lục lọi trong xách tay để kiếm cái khăn, bất ngờ đụng phải mấy món thuốc mà má tôi đã nhét theo. Bỗng dưng tôi thấy choáng váng quay cuồng, đầu óc lộn xộn, lung tung, rối beng như nùi chỉ. Những hình ảnh chập choạng ráp nối. Thấp thoáng đâu đây, tôi thấy cái nhà cẩn gạch sứ trắng số 16 đường Nguyễn Thái Học, thị xã Phú Cường có ba tôi đeo kiếng già, áo sơ mi trắng ngồi bán thuốc, má tôi áo bà ba trắng, quần lãnh đen,xách giỏ mây đi chợ. Lối xóm có chú tư Vũ Văn Lư, ốm ốm cao cao ngồi trên chiếc ghế tréo bằng da để đóng giày, cô hai Hiệp Thành mập phục phịch mở tiệm cầm đồ, cô hai Hiệu trắng trẻo, dịu nhiễu bên tiệm thuốc tây, ông Mỹ Kiều có tật chưn đứng ẹo mình một bên, uốn tóc cho khách, bác Hai Đức Hoà mập mạp, bán sắt bán đinh. Trên dốc nhà thương, miệt Bưng Cải, có các bạn tôi, anh Hưng, anh Thạnh, anh Phúc, anh On, tất cả quây quần thân ái, kể chuyện buồn vui đời dạy học và những đứa học trò thân yêu nữa, chúng đang học tập nô đùa ở sân trường.

Tôi thấy hết, rất rõ những kỷ niệm của trên ba mươi mấy năm sống yên vui ở cái vùng đất trái ngọt cây lành nầy. Tôi cũng nhìn thấy những chiếc xe thổ mộ già nua chất đầy giống gánh, lọc cọc, lọc cọc chạy trên những đường đất đỏ ngoằn ngoèo Tương Bình, Bến Thế, Mỹ Hảo, hai bên là ruộng rẩy xanh mát. Những người đàn bà lam lủ tần tảo xuôi ngược, những người dân quê nghèo khổ, dang nắng dầm sương, vun xới những luống rau xanh...

Cuộc đời tôi đó. Nó gắn chặt vào những hình ảnh thiệt đơn sơ, thiệt tầm thường nhưng đầy đủ quá, thân thương quá. Tôi còn ước muốn gì hơn ? Vậy mà đến gần nửa cuộc đời, bắt buộc phải đành đoạn ra đi, để đến hay không đến, một góc biển chân trời xa lạ nào đó, không cha mẹ, không người thân, không bạn bè, rồi sẽ sống chung với những người không cùng màu da, không cùng tiếng nói... Tôi không thể tưởng tượng rồi sẽ ra sao nữa !

Duyên chắc cũng mang tâm trạng rối bời, nàng cũng ủ rủ không kém, từ khi cất bước ra khỏi nhà tới giờ không nghe nói năng. Xe đã qua khỏi quận Lái Thiêu, ngang qua lò đường Vĩnh Phú, những thửa ruộng mía ngút ngàn, xanh ngăn ngắt, mùi nước chè ngào ngạt thoảng vào lòng xe, một tấm bảng to đựng bên đường để làm ranh giới Bình Dương với Gia Định. Bốn chữ sơn xanh đậm nét " Hẹn ngày tái ngộ " đập mạnh vào mắt, khiến tôi bàng hoàng. Duyên nghiêng qua tai, nói thiệt nhỏ:
-Vĩnh biệt Bình Dương phải không anh ?
Bình Dương bây giờ như một cố nhơn, sắp rời xa trong mắt nhưng không phải trong lòng, làm sao có thể dễ dàng phai lạt được, dầu ở chốn nghìn trùng vời vợi.
Chờ trông quê cũ nao nao
Mặc cho tim lụn, dầu hao cũng chờ

Tôi gượng gạo trả lời, giọng yếu hẵn đi:
-Không phải đâu em, anh hy vọng chỉ là tạm biệt.

(Trích Pulau Bidong Miền Đất Lạ, Chương 1)