Monday, August 1, 2011

Pulau Bidong Miền Đất Lạ - Chương 17

Chương 17:

HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT

Những thân dừa trơ ra dưới nắng cháy. Những mái lều xanh hình như không đủ sức che mát cho những con người khốn khổ chui rúc phía dưới. Nắng cháy trên đầu, nắng phỏng dưới chưn. Tôi phải chen lấn trong đám đông hỗn độn, ồn ào đủ thứ âm thanh, đủ loại màu sắc để đi cho lọt, về được tới lều thì trời đã trưa. Bidong bị phơi khô, đang bốc hơi ngùn ngụt và sắp tan thành nước… Ở đảo chiều xuống rất mau, khoảng bảy giờ thì trời đã tối hù. Một phần thì mặt trời xuống thấp, một phần lều bị che kín mít bốn bên, ánh sáng le lói buổi chiều tà đâu còn ngõ nào mà chun vô trong cho được. Cơm nước cũng vừa xong, nếu không có việc gì phải ra ngoài, thì chỉ có nước đi ngủ. Không có đèn sáp mà cũng chẳng có đèn dầu, tất cả đều bị bỏ lại ở Kapas. Tôi ngồi trong một góc sàn, thoải mái. Hơi mát buổi tối làm cho mọi người tươi tỉnh trở lại. Vợ chồng, anh em, quây quần kể chuyện cho nhau nghe những việc xảy ra trong ngày. Cái sàn tuy rất chắc nhưng nhỏ và chật quá, chỉ xê qua xích lại một hai tấc thôi.

Nói ba điều bốn chuyện thì có tiếng chào rào, chộn rộn ngoài cửa. Tiếng một thanh niên người Tàu lai líu lo. À, thì ra thằng con chị Mỹ Á dắt cô Lý Tố Hà đến thăm. Trong bóng tối mờ mờ, cô Hà leo lên gác, mắt nhìn quanh, gặp Duyên và tôi, mừng rỡ hỏi dồn:
-Ủa, có hai anh chị đi chuyến nầy nữa sao? Vậy mà tôi cứ tưởng chỉ có mấy em... Nghe nói đi cả hai ba tháng trước rồi mà, sao bây giờ mới tới đây?
-Ừ, thì cũng phải rán, chớ thiên hạ xúm nhau đi hết rồi mình còn ở lại với ai. Sau khi cô đi vài tuần thì tụi tôi xuống Bạc Liêu. Cứ tưởng là được đi liền, nhè đâu bị kẹt lại đó hai tháng. Đến khi đi được, lại không vào thẳng Bidong nầy mà lại ghé một đảo kế bên… Ở đó lâu tới một tháng. Kể mất tất cả là ba tháng bỏ phí vô ích!
Cô Hà nhờ cơm gạo Bidong nên có vẻ mập, tròn hơn trước:
-Tôi đến đây kể trên bốn tháng rồi, xin đi Mỹ không được, bây giờ chuyển qua đi Úc… Tôi có một mình, nên Úc dễ nhận hơn, cái xứ gì chỉ nhận đàn bà, con gái độc thân.
Rồi cô hỏi tiếp:
-Lúc tôi tới Bidong có đánh điện tín về, không biết ở nhà có nhận được không? Tôi trông hoài mà không thấy thơ từ gì hết. Hỏi thăm không ai biết…
Tôi trả lời mau mắn:
-Có, ở nhà hai bác có nhận được điện tín của cô. Bác Hai mừng lắm, có đem lên nhà cho tôi coi.
Cô Hà xúc động mừng rỡ:
-Trời, vậy mà tôi lo nó không tới. Tội nghiệp ông già, bà già…
-Bửa đó ngày Tết Dương Lịch mà, tôi còn nhớ rõ bác gái khi nhận, đọc chữ ‘bình an’ thành ra ‘bị nạn’. Bả mừng quá nên mắt mờ luôn, đọc hết nổi.
Cô hỏi nữa như không tin chuyện ba má cô nhận được điện tín là có thật:
-Rồi anh có gặp ba tôi không? Anh thấy lúc đó ổng ra sao?
-Ờ, ờ bác trai cũng vui lắm. Mỗi lần ổng nói chuyện là cứ nhắc ‘con Hà nhỏ’ hoài. Chà, con gái cưng mà, cô là người vượt biên đầu tiên trong đám bạn bè ở tỉnh, ai cũng nễ hết…
Má Bi xen vô:
-Cô Hà biết không khi cô đi rồi, có một người buồn lắm! Cô phải hối lộ cái gì đi, thì tôi mới nói ra người đó là ai?
-Trời, em mà có ai thương yêu? Nếu có người nào để ý thì em đâu có đi làm chi. Mà người đó là ai vậy chị?
-Tôi không nói đâu. Bây giờ có nói ra thì cũng góc biển chơn trời hết rồi... Hổng lẽ cô vượt biên trở về Bình Dương!

Trong bóng đêm, cô cựu hiệu trưởng ngồi im thẩn thờ. Những người bạn cũ cùng một góc trời quê hương hiện lên rõ nét. Những con đường làng đầy bóng tre xanh, những dãy lò chén khói lên ngùn ngụt, những hầm đất sét vàng sệt, những buổi tiệc ăn uống vui đùa… còn gì nữa, mái trường Cấp Ba Thị Xã và những đồng nghiệp quen thân.
Bỗng nhiên, cô hỏi:
-Anh Hưng, anh Sanh, bây giờ ra sao? Anh Trầm nữa?
-Chút nữa tôi quên, nói cho cô mừng, anh Sanh bây giờ thành bác sĩ châm cứu rồi. Trước khi đi có gặp, ảnh đưa khoe cái giấy của Ủy Ban Nhân Dân Xã cấp cho phép được làm bác sĩ châm cứu… Bây giờ ai cũng kêu ảnh là bác sĩ hết. Ngon lành chưa?
Cô Hà cười ngất:
-Còn anh Trầm?
-Anh Trầm cũng giàu lắm. Ảnh chạy áp phe rất giỏi. Chuyên môn mua thịt heo bò lậu trong các làng xa, nhét trong cốp xe Vespa chạy về chợ Bến Thành để bán…
Bẵng đi một hồi, cô hỏi tiếp, giọng ngập ngừng:
-Rồi anh Thạnh…
Tôi nghe trong hơi thở cô có cái gì xa vắng, mênh mông. Tại sao cô lại để anh bạn nầy sau hai anh kia?
-Anh Thạnh cũng còn đi dạy như thường, chưa đổi nghề mới. Ảnh thường nhắc tới cô hoài, trước khi đi tôi có đến từ biệt, anh chàng coi tiều tụy xác xơ lắm…

Cô ngồi im không nói. Tôi nghe tiếng gió đập phần phật trên nóc lều. Chiều nay Tiến và Chiêu vừa mới lợp thêm một lớp bạt ny lông mới cho đỡ nóng. Chị Liêu Thạnh mua dùm giá ba mươi đồng. Có lẽ một góc nào đó cột chưa được chắc nên bị gió thổi tung. Ngày mai có thì giờ rảnh leo lên cột lại, cũng dễ lắm. Nhưng trong đời có nhiều chuyện chỉ cần một sơ sót nhỏ hay một vô tình, thời gian đưa đẩy, tất cả đều thay đổi hết, làm sao mà vá víu lại cho được. Như chuyện tình yêu…
Duyên ngồi sát lại cô Hà, nói:
-Cô Hà biết không, anh Thạnh thường tâm sự với hai đứa tôi, không biết tại sao mỗi lần gặp cô là mọi dự định gì cũng không dám nói…
-Như vậy là ảnh đâu có thương yêu gì em?
-Đâu phải như vậy, ảnh cũng ăn nói ồn ào lắm chớ, cô thấy ảnh dạy học thì biết, có lẽ cô đẹp và giàu hơn nên ảnh nghĩ là không sánh bì được. Đàn ông ưa bị mặc cảm thua kém…
Tôi xen vô nói phân hai:
-Tôi thì thấy như vầy, nếu hai bên mà thương nhau thiệt tình thì dầu có muôn ngàn khó khăn cách trở cũng thành chồng vợ được.. Còn nếu không thương hoặc tình thương chưa đủ thì dầu có lấy xiềng cột cho dính nhau cuối cùng cũng tan vỡ… Biết đâu một ngày đẹp trời nào đó, ổng cũng lót tót qua tới Bidong nầy cho coi!

Câu chuyện kéo dài cho tới khuya. Hai bên hàn huyên, đối đáp nhau trong bóng đêm chập choạng. Chỉ nghe có âm thanh, tiếng nói, tiếng cười, tiếng thở và tiếng động xung quanh. Cô Hà từ giả ra về, có cậu con chị Mỹ Á hộ tống. Ánh đèn bấm lấp lóa, rọi dài theo con đường hẽm nhỏ. Bidong về khuya, người và vật ngủ im lìm sau một ngày mệt mỏi chen lấn nhau. Tôi nằm trên cái nệm cây sần sùi, lăn qua trở lại, nhớ miên man những bạn cũ còn ở quê nhà, mới ngày nào còn xum họp đông đảo vui vầy, bây giờ xa cách nhau một đại dương… Cũng may còn gặp được cô Hà nơi đất khách. Ước gì gặp lại nhau được hết nơi đây, anh Hưng, anh Thạnh, anh Sanh, anh Trầm... Nhưng niềm uớc ao nầy chắc khó thành, vì bạn nào cũng nghèo quá, lo ăn còn chưa đủ, nói chi tới những dự tính xa vời. Người nghèo dầu ở chế độ nào cũng là kẻ thiệt thòi hơn hết. Cuộc chiến tranh tương tàn kéo dài ba mươi năm, cuối cùng thì người lao động quần quật ở rừng sâu, người sống lây lất ở thành phố và một số nhỏ, rất nhỏ được coi là may mắn thì lang thang nơi đất lạ quê người…! Có tiếng sóng chập chùng ở cuối bãi, chắc nước thủy triều đã dâng lên cao tới sát vách đá. Cái lều cây chơ vơ lơ lửng ở giữa triền, tôi có cảm giác bập bềnh như đang nằm trên ghe, bốn phía đều là sóng lớn dào dạt…
*
* *
Nắng vàng tươi trên các lối, tôi và Duyên len trong đám đông đi về phía hội trường. Mới hơn tám giờ sáng sao mà người đông quá sức phải chen mà đi. Tâm Bi được mẹ bồng đưa cánh tay mũm mĩm, chỉ chỏ hết chỗ nầy đến chỗ kia, miệng bi bô coi điệu mừng rỡ. Thằng nhỏ ngày nào cũng được mấy chú, mấy cô bồng bế đi chơi nên khoái lắm. Sáng nay Bi cũng được đi chơi, lại được bận đồ đẹp đẽ hơn ngày thường nghĩa là có bận đủ quần và áo. Mọi khi Bi chỉ có quần mà không có áo hoặc ngược lại, có áo mà không có quần. Quần cứ bị uớt hoài, giặt phơi không kịp khô! Bộ đồ sọc xanh có quai tréo được Duyên lấy trong xách tay ra, còn nguyên nếp xếp hăng hăng mùi vải mới, bận vô coi Bi đẹp trai hơn ngày thường. Duyên cũng mặc một cái áo mới màu trắng đơn giản. Tôi đi trước dẫn đường, mồ hôi rịn ra trên lưng. Cả tuần rồi ở trần trùi trụi nên quen da, bữa nay mặc lại áo tuy chọn cái ngắn tay, vẫn cảm thấy vướng víu nực nội.

Từng cơn gió ngoài khơi thổi đong đưa các tàu dừa xanh mướt loang loáng nắng vàng nhưng không đủ mát cho người ngoài đường. Những mái lều xanh màu ngọc thạch, căng lưng hứng hết hơi nóng nhiệt đới từ trên cao đổ ập xuống. Trên các đường nhỏ ngột ngạt, hàng ngàn người di chuyển tới lui rộn ràng như đàn kiến kéo nhau đi tìm mồi. Một đám kiến đông nghẹt đang đứng sắp hàng trước hội trường, tất cả tôi đều quen biết, đàn kiến của ghe BL 1648 hôm nay tụ tập lại đây để lập hồ sơ ghi danh chánh thức là dân tỵ nạn Liên Hiệp Quốc. Anh Tư mặc áo trắng bong tay dài, có gài nút vàng hực hỡ, giày da đen đánh bóng soi gương được. Chị Tư và Mỹ Thanh vòng vàng, hột xoàn lấp lánh.. như đi dạ tiệc. Tôi chào từng người và hỏi:
-Anh Tư tới lâu chưa, sao chưa thấy anh chị Thuần với vợ chồng Quách Linh Hoạt?
Anh Tư Trần Hưng Đạo nhờ ăn mặc kỹ lưỡng nên coi trẻ hơn lúc trước, nói cười tươi rói:
-Mấy ông bà đó mua nhà tuốt trên khu E, từ trên sườn núi mà đi tới đây chắc cũng phải cả giờ…

Tôi thoáng thấy cái mề đay vàng đeo lủng lẳng bên trong áo. Ông bà nầy hay thiệt, hồi ở đảo Dừa, tụi Mã Lai xét rất kỹ đồ đạc, hành lý, vậy mà vẫn còn dấu được y nguyên, không mất mát món nào. Dân buôn bán thường thì khá giả hơn giới công chức quân nhơn. Anh Thuần và Quách Linh Hoạt ít tiền hơn, đành phải leo tuốt lên núi che lều. Muốn đi tới khu E phải từ hội trường nầy, vượt qua không biết bao nhiêu lều trại, đồi dốc dựng ngược mới tới được. Mỗi lần lên trên đó thăm bạn là tay chưn tôi rã rời, thở hết muốn nổi. Miệt đó khoảng lưng chừng núi, phía sau là rừng cây, bất tiện đủ mọi điều, duy có việc kiếm củi là tiện nhứt, không phải đi xa.
Chị Tư đứng kế bên phân trần:
-Hai vợ chồng tôi con cái đông quá, đứa nào đứa nấy còn nhỏ xíu thành ra phải rán sức mua cái lều ở khu A nầy, chớ thiệt ra cũng không dư dả gì nhiều…
Anh Tư chen vô:
-Phải chi hồi bữa mới tới, ghe mình được mở hồ sơ Cao Ủy ngay, thì có thể vô gặp phái đoàn Canada tới kỳ rồi Thiệt xui hết sức, nó nhận trên năm trăm người mà không cần điều kiện gì hết…
Tôi góp chuyện:
-Ừ, ừ, ở đây ai cũng muốn đi Mỹ, chớ không thèm Canada, một phần Canada yếu quá, hai là lạnh quá. Người ta chê… thì mình xin chắc được!
Tiến và Chiêu sau một hồi đi vòng vo trở về. Tiến hỏi:
-Bữa nay mình khai lý lịch cho Cao Ủy Tỵ Nạn mà trong tay không có một giấy tờ nào lận lưng, rồi làm sao chứng minh, ai tin?
Anh Tư khoát tay:
-Đừng lo, bồ ơi, chuyện gì tôi không biết, chớ chuyện đó thì rành sáu câu. Nhà tôi ở sát vách hội trường, nghe thiên hạ kể lại đầy lỗ tai. Ai muốn khai gì cứ khai, tha hồ. Trung sĩ lên thành Trung úy, y tá lên bác sĩ, thợ máy khai kỹ sư, học lớp mười khai tốt nghiệp Đại học, có vợ năm con cứ khai còn độc thân… rồi nhiều khi đổi luôn cả tên tuổi! Cứ nói giấy tờ rớt hết xuống biển là xong, dễ ợt! Tụi phái đoàn phỏng vấn cũng không thèm kiểm chứng, chỉ trừ có Mỹ là hơi rắc rối với cựu quân nhân, công chức vì hồ sơ lý lịch còn lưu trữ đầy đủ, còn các nước khác thì đâu cần biết tới làm chi cho mất công.
Tiến suy nghĩ một hồi rồi lẩm bẩm:
-Đâu có được, nếu mà khai bậy bạ lung tung như vậy thì giấy tờ bằng cấp kể như bỏ hết!
Anh Tư cười ha hả:
-Tại bồ có bằng cấp cao thì sợ là phải, nếu khai trật là kể như phải học lại từ đầu, còn như tụi tôi trụi lũi, dầu có khai gì đi nữa thì cũng đâu có làm gì được…
Chiêu nãy giờ đứng im nghe đối đáp, bây giờ mới thủng thẳng nói:
-Cũng được chớ anh Tư, trường hợp của anh thì không cần khai học tới kỹ sư, bác sĩ gì, chỉ cần bớt chút đỉnh…
Anh Tư nôn nóng:
-Bớt cái gì chút đỉnh?
Chiêu ngó chị Tư rồi cười:
-Thì anh bớt lại chừng mười tuổi, còn tình trạng gia đình thì đề là độc thân…
Chị Tư Trần Hưng Đạo háy chồng một cái dài hàng cây số :
-Xí, chú Chiêu tưởng anh Tư ngon lắm hả. Phải chi có cô nào chịu, rước phức ổng đi cho tui nhờ, già cúp bình thiếc rồi, dầu có khai thấp khai cao gì, cũng đâu có gạt ai được…
Tôi muốn chọc chị Tư cho vui, bèn nói:
-Cũng chưa biết đâu à nghen, cái gì cũng phải làm thử mới biết thiệt hư. Tôi nhớ hồi còn ở đảo Dừa có cô gì đẹp đẹp đó, cứ theo nói chuyện với anh Tư hoài…, làm tôi ghen hết sức!
Chị Tư nắm lấy tay Duyên:
-Nè, cô Duyên, nghe mấy ổng nói chuyện đã thèm chưa. Ông nào cũng như ông nấy, quá trời!
Duyên cười:
-Hơi đâu mà chị nghe, người nào mà ưa nói được người nầy yêu, được người kia thương, là người đó không có ai yêu thương hết. Họ phải nói như vậy để che dấu khuyết điểm… Còn ông nào lầm lầm, lỳ lỳ, không nói gì hết thì mình phải sợ, phải đề phòng…

Hàng người di chuyển dần dần tới trước, nhờ nói chuyện tầm phào mà tôi tiến sát tới nơi khai báo hồi nào không hay. Đó là ba cái bàn bằng gỗ tạp được kê sát vô vách trái của phòng hội. Trên bàn có để các mẫu giấy để người tỵ nạn tự ý điền vào. Tôi đến trước thuận tay lấy hai tấm, một cho tôi và một cho Duyên, xong rồi cả hai ngồi xuống điền các chi tiết được hỏi. Tôi liếc nhanh qua những hàng chữ và ngạc nhiên nói với vợ:
-Em coi nè, tờ khai lý lịch của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc sao mà đơn giản quá vậy?.
Duyên cũng đã đọc qua nói:
-Ờ, ít quá, chỉ có hỏi tên tuổi, ngày và nơi sanh, nghề nghiệp, ngày đến đảo… Rồi kêu chọn theo thứ tự ba nước muốn đi định cư… Thôi vậy cũng gọn, khỏi phải dài dòng lôi thôi như Việt Cộng.

Nghe nàng nói tôi nhớ lại những ngày đầu tháng 5 năm 1975 tôi và Duyên phải đến trình diện ở Tòa Án Bình Dương để làm tờ khai lý lịch với Ủy Ban Quân Quản của Tỉnh. Ở đó tôi gặp lại hầu hết các giáo sư bạn bè, những công chức của các ty sở. Người nào người nấy câm nín, lặng thinh, ngồi đứng rón rén sợ sệt, đầy vẻ nhẫn nhục, chịu đựng của người bại trận. Tôi ngồi trên cái băng cây, cầm xấp giấy được phát, vừa đọc vừa rùng mình. Dễ sợ thiệt. Những câu hỏi dầy đặc bao quanh cuộc đời từ ông cố, ông nội, đời cha rồi tới đời con, đời cháu. Bên nội, bên ngoại,.. hàng xóm, gần xa.. Rồi tới chuyện tốt chuyện xấu, thương ai ghét ai, có cần tố cáo gì với nhân dân, đảng và nhà nước sẵn sàng lắng nghe và giúp đỡ. Mẫu khai lý lịch đơn giản đó, sơ sơ gần mười trang, tuy là những tờ giấy mỏng tanh nhưng nó có sức nặng như đá tảng. Tôi đã viết miên man như người lên đồng, đầu óc nóng bừng bừng. Cũng may tôi chỉ là một thầy giáo ở tỉnh lẻ tầm thường… Tôi không thể tưởng tượng một vị chính khách, một bộ trưởng hay một tướng lãnh mà cuộc đời các vị đó là một chuỗi dài biến cố thì bảng lý lịch phải tới bao nhiêu trang? Một trăm, hai trăm, một ngàn, hai ngàn... hay nhiều hơn nữa? Chưa bao giờ và ở đâu, đời tư con người được khai thác tận tình như dưới chế độ Cộng sản. Nghe bao nhiêu lời truyền tụng, đọc bao nhiêu sách vở, cũng không bằng thực sự sống trong lòng chế độ một ngày. Chỉ một ngày thôi cũng đủ biết đá biết vàng, nói chi đến năm mười năm hay dài lâu hơn nữa…

Duyên day qua hỏi tôi:
-Mình chọn Canada ưu tiên một, Úc ưu tiên hai phải không anh?
-Em suy nghĩ kỹ lại coi, nếu muốn chọn Hoa Kỳ, vợ chồng mình cũng có đủ điều kiện .. nhưng phải chờ lâu lắm đó. Có người chờ năm, bảy tháng, một năm mà cũng chưa nhúc nhích! Úc thì cũng đi lẹ nhưng gần khu vực Đông Nam Á quá, biết đâu một ngày nào đó tụi nó len lỏi tới, mình phải chèo ghe đi trốn một lần nữa… Theo anh nên chọn Canada cho gọn, dễ đi, chớ tình trạng ở đảo như vầy, kéo dài tháng nầy qua tháng kia, rủi ro bịnh họan thì làm sao!
Út Trung xách tờ khai lại gần tôi nói:
-Em chọn Huê Kỳ ưu tiên một, Canada kế. Bên Huê Kỳ, khoa học kỹ thuật cao, mình có thể theo học được, nó lại giàu mạnh nhứt thế giới. Anh chị đổi lại đi, qua Mỹ với em cho vui.
Sơn chọn Mỹ và Tây Đức. Còn Dân gì đó thì cầm giấy, đứng ngó hết người nầy tới người kia, cuối cùng nó chạy lại tôi, miệng nói tía lia:
-Anh chị tính lựa đi định cư xứ nào? Sao người ta tốt quá, cho mình đi mấy xứ văn minh như bên Tây bên Mỹ gi đó, em thấy chỗ nào cũng được hết. Để em hỏi thử coi, em chọn ba nước mà nuớc nào cũng ưu tiên một hết, có được gì đó không?
Tôi trả lời dùm cho nó:
-Đâu có được Dân, nếu em chọn ba nước cùng ưu tiên một, làm sao người ta cứu xét. Thôi, hay là em chọn Canada để đi với anh chị đi.
Thằng nhỏ không đắn đo gì hết, chìa tờ giấy ra, miệng cười cười:
-Thôi, sẵn viết gì đó, nhờ anh ghi vô dùm. Anh muốn ghi gì đó thì cứ ghi, em đâu có biết nước nào ở đâu, miễn làm sao đi cho lẹ lẹ gì đó là được.
Tôi vừa ghi cho nó, vừa nói:
-Canada thì lạnh lắm đó nghen, chỗ nào cũng đóng nước đá hết. Mai mốt bị lạnh teo ruột teo gan thì đừng có bắt đền nghe không!
Dân gì đó cười hì hì:
-Anh nói vậy chớ, đâu có chỗ nào lạnh dữ quá gì đó. Chắc bên đó cũng y như trên Đà Lạt, anh chị chịu được thì em cũng chịu được gì đó, em hổng lo…

Tôi cầm tờ giấy đã khai đến nộp cho một nhân viên ngối sau bàn giấy. Anh kiểm sóat lại coi có điền đầy đủ các chi tiết và chữ ký đúng thủ tục hay không. Công việc giải quyết nhanh chóng. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần trên năm trăm người của đảo Kapas đưa qua, đã làm thủ tục ghi tên tỵ nạn với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ở đảo Bidong một cách thật gọn gàng. Quang cảnh đã thưa bớt. Khai xong mọi người tản mát ra về.
Tư Trần Hưng Đạo rủ tôi ghé nhà anh chơi. Thuận đường về tôi rủ Duyên ghé vào cho biết thế nào là một căn lều sang trọng ở khu A. Căn lều khá lớn, y như một cái nhà tranh nhỏ ở thôn quê, nhìn qua bên kia đường là phòng thông tin của đảo. Bước vào trong, không khí mát hẳn, chắc là nhờ trần cao và rộng, bên trên lại có những tàn dừa che rợp, ngăn bớt được sức nóng mặt trời. Tôi vọt miệng khen:
-Trời, biệt thự của hai ông bà sang quá. Ở đây mà làm sao có được bộ ván phẳng phiu như vậy... rồi phía trước còn rộng rinh, phía sau làm bếp. Đã thiệt!
Anh Tư đã cởi áo ngoài, chỉ cho tôi cái giếng nước được đào sát bên vách:
-Bồ coi nè, có cái giếng trong nhà, cũng tiện lắm. Khỏi phải đi xa, giành giựt chờ đợi.

Tôi thấy một cái giếng hình vuông vức chừng một thước, nước đen tối hù bên dưới không biết sạch hay dơ. Những nhà rộng, người ta thường đào giếng ngay bên trong để có nước mà dùng. Đằng nhà anh Liêu Thạnh cũng có, khi nào giếng của đảo cạn nước, tôi thường xách thùng lại ảnh mà xin. Cả đảo chừng cũng có trên vài trăm cái, kiểu nầy. Mùa khô cạn nước, người ta đào xới tứ tung. Chị Tư vừa rót nước mời khách, vừa nói:
-Nhà rộng vậy chớ phải chia ba đó. Phần của tụi tôi chỉ có bộ ván nầy. Phía trước và phía sau của chủ khác. Vậy mà phải mua tới năm trăm đồng.
Lều ở Bidong lúc đó có giá lắm. Người đông, đảo lại hẹp nên giá cả tăng vọt. Trung bình một căn nhà nhỏ ngang ba thước, dài bốn thước, bán độ ba trăm đồng Mã Lai. Vàng một chỉ giá sáu mươi đồng. Như vậy tương đương với năm chỉ vàng. Anh Tư nói:
-Thấy thì rộng vậy, chớ đám hát của tụi tôi đông quá, có lẽ phải kiếm mua thêm một cái nữa để chia bớt ra, đêm nào ngủ cũng có đứa bị đạp lọt xuống đất. Ở đây được cái tiện là ở sát hội trường, trung tâm của đảo. Tin tức định cư gì tôi cũng biết hết. Suốt ngày nghe tin phái đoàn đến, tin phái đoàn đi, tin ghe vượt biên, tin các người thân thuộc đến đảo, tin hầm bà lằng… hai ông bà cần biết chuyện gì cứ hỏi, tôi nói cho nghe.
Rồi anh tiếp:
-Ngon lành nhứt ghe mình là Hủ Tiếu. Thằng chả đem được vàng nhiều quá, của tụi mình đóng chớ của ai, mua cái nhà lớn mấy ngàn đồng, bên kia đường đối diện với trạm Cảnh Sát. Nhà chia làm nhiều phòng, nhiều giuờng vì bộ hạ của chả khá đông. Gia đình Hủ Tiếu đi tòan bộ từ bà mẹ già tới mấy đứa cháu nội, cháu ngoại còn ẳm trên tay. Người Tàu họ làm ăn giàu hơn người mình. Vừa tới được một hai ngày gì đó, mua nhà xong bèn lên đồi trực thăng ở khu F móc đất sét đắp thành lò bánh mì. Bột mì ở đây rẻ và bột nổi rất tốt. Ông ta bán một đồng bốn ổ bánh nhỏ. Bánh nóng xốp, thơm ngon và rất dòn. Cây củi thì chặt ở trên núi, thiếu gì…
Tôi cười và nói:
-Vậy Hủ Tiếu lúc nào cũng là người cung cấp dịch vụ, còn tụi mình là người tiêu thụ… Nói rõ hơn theo nghĩa đen, Hủ Tiếu lúc nào cũng có tiền, còn tụi mình lúc nào cũng hết tiền.
Duyên níu lấy tay tôi:
-Thôi, thôi, ông ơi, trưa nóng quá rồi, mình về để anh chị Tư còn lo cơm nước, chuyện Hủ Tíu để thủng thẳng nói tiếp, mình còn ở Bidong nầy lâu lắm mà…
-Ừa, về thì về nhưng để rủ anh Tư chiều nay đi tắm cho vui…
Anh Tư vừa uống nước vừa nói:
-Khi nào bồ đi ngang hú tôi một tiếng là xong ngay, rủ thêm ‘dà’ Sơn với Dân ‘gi đó’ cho đủ bộ..

Giờ nầy cả đảo như bị nung chín, vừa bước ra khỏi cửa hẹp hơi nóng hâm hấp táp vào mặt, tôi vội mở vài nút áo cho thoáng. Con đường về nhà sao mà quá dài, đi hoài cũng chưa tới, chiếc dép lại sứt quai, khiến bước chưn khập khiểng. Những chiếc lều nép sát vào nhau núp nắng, đưa cái nóc xanh ra hứng hết cơn nóng buổi trưa. Mồ hôi đã tươm ra đầy mặt đầy lưng, tôi cởi luôn cái áo vắt vai, mong chờ một cơn gió mát từ khơi xa xăm thổi tới… Bidong sao mà nóng bức quá, những đọt dừa vàng ẻo, những da người đen thui.

VÕ KỲ ĐIỀN

1 comment:

Unknown said...


Cám ơn nhà văn Võ Kỳ Điền đã kể ra chi tiết.

Như-Ý, Cầu Ông Đành ( Thủ Dầu Một )