Tuesday, December 2, 2008

NHỮNG CHIẾC GHE LẠ



Từ khu dựng lều của người Việt nhìn về cuối đảo là một vách đá xám đen sừng sững chắn bít chơn trời, nhô hẳn ra biển xanh. Những khối đá đồ sộ to cao hàng mười, mười lăm thước nằm ngang nằm dọc gồng mình ra đón những đợt sóng hung bạo từ ngoài khơi xa xăm đập thẳng vào nghe ầm ầm, ầm ầm suốt ngày đêm. Những con hàu già cỗi rong rêu xanh xám bám dầy dưới chưn đá từng lớp lớp. Đá xanh đen thi gan cùng biển cả nằm lỳ ra đó cả triệu triệu năm. Bên kia vách đá là làng đánh cá của ngư phủ Mã Lai. Mỗi sáng từng đoàn ghe thức dậy một lượt với mặt trời, nổ máy dòn dã xình xịch ra khơi. Ghe đánh cá Mã tương đối nhỏ nhưng hai bên hông to bè ra, khác với ghe Việt thon mà dài. Mới ngó là phân biệt được liền. Ghe mình giống một cô gái ốm cao và chưa chồng. Ghe Mã là một bà bầu lùn thấp được trang điểm sặc sỡ từ đầu đến chưn. Chiếc nào cũng còn mới được sơn phết đủ thứ màu, hầu như không thấy dấu vết đen đúa cũ kỹ hư mục. Những tảng màu xanh đỏ vàng trắng được sơn xen kẽ nhau lằn nhỏ lằn to vòng quanh thân ghe, tạo được cái vẻ xinh tươi đẹp đẽ. Những ngư dân đánh cá ở mặt trước đảo, họ dùng lưới nhỏ và ít người bạn phụ việc vì có lẽ nơi đây còn quá gần bờ. Những ghe lớn có dàn lưới to hơn chắc ở tận ngoài khơi. Ngoài mấy ghe đánh cá còn có những chiếc chuyên chở hàng óa, những loại trái cây thổ sản giống y bên mình. Những ghe chở dừa, chuối, thơm, mía... được chất khẩm đầy khoang, ghe lướt êm đè sóng mà đi từng đoàn bốn năm chiếc. Buổi chiều mặt trời mỏi mệt vừa nghiêng xuống gần mặt nước thì những đoàn ghe đánh cá xình xịch trở về đi ngủ. Trên ghe thấp thoáng người dân Mã quấn khăn trên đầu mặc xà rông thong dong ngắm trời mây. Đời sống họ trông có vẻ an nhàn sung túc. Nhìn vẻ thoải mái của họ mà tôi sướng lây. Cả ngày không việc gì làm tôi bồng con nhỏ sáng sáng chiều chiều đón ghe đánh cá đi, về để cho qua thì giờ khắc khoải chờ đợi. Mãi cho đến một buổi chiều khoảng bốn, năm giờ, ánh nắng còn chói gay gắt trên mặt biển, từ thiệt xa có một chiếc thuyền Mã chạy thẳng ngay vô đảo. Tôi mắt kém nên không để ý làm chi. Mỗi ngày có hàng hai ba chục chiếc đi ngang qua đảo là thường. Ngoài ra có chiếc của tụi lính liên lạc với đất liền hàng ngày, đó là không kể những chiếc tàu sắt đồ sộ thường ghé đậu cặp cầu tàu. Chiếc thuyền nhỏ như cái tô lần lần lớn như con bò mộng... rồi bằng cái xe hơi. Tôi cũng thấy gì khác hết. Anh Tư Trần Hưng Đạo nhìn thấy là lạ rồi đi sấn ra bờ cát. Bỗng dưng anh la lớn:

-- Thuyền tiếp tế, bà con ơi!

Tiếng la chói lói, tôi giựt mình rán nhìn kỹ thấy ghe sơn trắng toàn thân, có cắm cờ lưỡi liềm đỏ. Tôi không biết cây cờ nầy có ý nghĩa gì. Tại sao lại hình trăng lưỡi liềm đỏ? Trong bụng phân vân, hồi hộp. Lạy trời cho đúng là thuyền tiếp tế đến từ đất liền như Tư Máy Cày hy vọng. Thực phẩm đổi được ăn tới chiều nay là vừa hết. Nếu không được tiếp tế thì làm sao bây giờ. Vàng hết rồi, đồng hồ cũng hết rồi, đô la thì không có... Cờ hình trăng lưỡi liềm màu đỏ? Trăng lưỡi liềm là biểu hiệu của Hồi giáo, vậy ghe nầy chắc của các hội từ thiện Hồi giáo Mã Lai. Thôi kệ cũng có chút hy vọng, miễn là được tiếp tế chút ít cầm hơi... Sơn đứng kế bên đập mạnh vào vai tôi kêu to:

-- Trên thuyền có anh Chiêu...

Tôi rán hết sức nhìn thấy có hai ba người đứng trên khoang chỉ chỏ.

Sơn tiếp tục nói lớn:

-- Kìa kìa anh Chiêu đứng kế bên thằng Hiếu. Có thằng cha Mã Lai mập đứng kế bên.

Tôi mừng quá, nước mắt ứa ra, miệng hỏi lia lịa:

-- Coi cho kỹ phải thằng Chiêu thiệt không, coi chừng lầm với ai...

Chiếc ghe tiến lại gần, gần hơn nữa, lá cờ phần phật. Trong khoang chun ra thêm một người mặc áo trắng.

-- Anh Chiêu rõ ràng, phải rồi anh Chiêu với thằng Hiếu...

Lúc đó cả trại túa ra đen nghẹt trên bờ cát. Người người nôn nao hồi hộp. Tôi mừng muốn ngộp thở. Chiêu đã được bình yên trở về. Trời ơi, còn nỗi sung sướng nào hơn nữa. Từ đây lòng tôi không còn dằn vặt áy náy. Lúc đi có anh em đầy đủ, nào ngờ giữa đường gặp phải cảnh bất trắc phải bỏ lại Chiêu trên bờ đất lạ bơ vơ. Bên tai tôi người ta bàn tán xôn xao ầm ỹ. Bọn lính trong đồn đã ra tới. Thuyền ghé sát vào bờ. Bây giờ tôi mới thấy rõ Chiêu mặc áo ngắn quần cụt đứng với vài người Mã dân sự. Hiếu ngồi một bên. Thuyền chở thực phẩm tiếp tế chất khẩm cả khoang. Nước lắp xắp ngang be. Thuyền rấn lên bờ cát ngừng hẳn. Chiêu nhảy tòm xuống nước bước bì bõm đi lên. Xám Mã Chải nghe tin em về, mừng quá nhờ người cõng ra gặp Hiếu. Hiếu vì bị đánh ở chưn còn đau nên không đi bình thường được. Hai anh em ôm nhau, đứng một chưn, một chưn cò cò, mừng mừng tủi tủi. Cái số gì mà kỳ cục, hai anh em vượt biên đều bị cà nhắc. Chiêu vừa tới bờ thì anh em chúng tôi vây quanh nó tíu tít. Mừng quá Chiêu nói muốn hụt hơi. Tôi nhìn thấy mắt nó hấp háy mới nhớ ra Chiêu bị cận thị nặng, quay qua kêu mấy đứa em:

-- Đứa nào chạy về lều lấy cho nó cặp kiếng.

Vừa dứt lời thì Tiến, vì đã đem theo sẵn, tròng cặp kiếng vào mắt Chiêu. Được đeo kiếng cặp mắt nó sáng hẳn ra.

-- Chiêu nè, cái ghe nầy của hội nào vậy? Tại sao treo cờ lưỡi liềm đỏ?

-- Hồng Thập Tự Mã Lai đó. Nó tiếp tế cho mình. Ở bên Marang người ta biết bên nầy bị đói thành ra chở ra đây nhiều lắm. Có sáu bao gạo một trăm kí, hai bao đường, mấy chục thùng sữa, cá hộp, trà, muối...

Tôi nắm lấy tay nó:

-- Em bị đánh có sao không?

Nó rờ lên đầu, gãi gãi tóc:

-- Em bị nhẹ, tụi nó đánh ở đầu với ở lưng em chạy tuốt ra biển. Còn thằng Hiếu bị nặng hơn, nó bị rách da đầu và gãy ngón chưn út, phải vô nhà thương để vá lại. Bây giờ nó đi cũng chưa được. Ở Marang em được đưa vào trại tỵ nạn gặp anh Phùng Quang Tuấn làm trưởng trại. Ảnh có hỏi thăm anh. Em gặp vợ chồng anh Khải, ảnh có viết thơ cho anh...

Từng câu nói của Chiêu làm cho tôi sung sướng bồng bột. Tuấn dạy chung với tôi ở Trịnh Hoài Đức, Khải-Hoàng thì cùng quê. Trước ngày vượt biên Khải bị xe bộ đội đụng gãy chưn phải bó bột, tôi chở Khải bằng Honda để xuống Chợ Lớn đăng ký lên ghe. Tất cả được bình yên hết. Cũng nhờ trời thương. Nơi đất lạ mà gặp lại nhau thì mừng biết bao nhiêu. Nhưng mừng nhứt là gặp lại Chiêu với Hiếu còn lành lặn. Chiêu trở về đảo với một thùng hành lý xin được ở Marang. Nó lục trong thùng đầy quần áo xin được, trong đó có mấy gói tép phơi khô, đưa cho tôi một gói:

-- Hồi ở bển, em rảnh đi xúc tép ngoài bờ biển, tép con nhiều lắm, phơi khô để dành. Em biết bên đảo không có gì ăn hết. Tụi lính Mã nó bỏ đói mình để mình phải lòi vàng ra cho nó, khi mình hết trơn rồi nó mới tiếp tế cho ăn...

Nghe Chiêu nói, tôi mới sáng mắt ra. Thiệt ngu quá, có như vậy mà cũng không biết cứ nghĩ tụi lính tử tế chịu cực chịu khổ đi về đất liền mua thực phẩm cho mình.

-- Anh biết không trại Marang là trại của những người đã được tuyển lựa để đi đệ tam quốc gia nên được nuôi tử tế. Mỗi bữa được phát cơm trắng với hột gà, canh cải luộc, gan ướp càry... Mà tụi Mã Lai nấu ăn bằng dầu dừa hôi hôi, ăn ngán lắm nên người ta đổ bỏ đầy ắp thùng rác...

-- Trời, hột gà luộc với gan càry mà chê hả? Bên nầy tụi anh không có cơm trắng mà ăn! Chỉ cách nhau có một khoảng biển mà bên no bên đói. Để khi nào anh được qua đó, anh ăn hột gà với gan càry cho em coi. Nghe nói không cũng thấy ngon rồi!

Hai anh cùng cười. Nỗi vui mừng khiến tôi no ứ. Bây giờ ở bờ cát người ta bu quanh chiếc ghe như ngày hội lớn. Mấy người Mã Lai dân sự làm thủ tục bàn giao thực phẩm với Tăn Ku. Tụi lính chọn người khỏe mạnh xuống thuyền chuyển đồ tiếp tế lên đồn. Ai cũng háo hức nhìn đống thực phẩm đầy nhóc trên ghe tuy trong bụng đói meo. Cả đảo đã nhịn đói cả tuần, bữa có bữa không. Sáu thanh niên trai tráng chia nhau khiêng một bao gạo một trăm kí. Người nào người nấy đi xững vững, bao gạo tuột lên tuột xuống coi bộ không kham. Chiêu vì lúc trước nhà có bán gạo nên biết cách khiêng. Nó giành khiêng một mình một bao. Bao gạo đè nặng lên vai coi bộ nó cũng đuối sức. Phì Lũ thấy vậy bước tới giành lấy bao nghiêng vai đỡ lấy rồi đi thẳng về đồn. Anh bước đi chắc chắn vững vàng. Một trăm kí lô trên vai mà đi như không, mạnh thiệt tình. Phì Lũ người Tàu độ chừng ba mươi bảy, ba mươi tám. Lúc còn ở Bạc Liêu thấy anh đi chiếc Toyota Corolla có tài xế bộ đội lái, người bệ vệ to lớn, đẹp trai, mới nhìn qua cứ tưởng ông lớn nào. Nào ngờ trời xui đất khiến lúc đi khiêng gạo lại gặp nhau. Căn lều của anh cất y như villa nghỉ mát ở Vũng Tàu, sàn lót bằng ván, vách dừng bốn phía, cũng có hành lang thụt ra thụt vô, cổng chánh cổng phụ, trang trí đẹp lắm. Nếu đem đấu xảo thì lều Phì Lũ được chấm hạng nhứt khu tỵ nạn đảo Dừa liền tức thì. Suốt ngày anh ta cặm cụi cưa cắt đục đẽo, tánh tình hiền lành vui vẻ dễ thương. Tụi thằng Cương với thằng Dân thủy thủ xì xầm rằng vàng với đô la của Phì Lũ cả bó. Điều đó không biết có đúng không?

Sau đợt khiêng gạo, mọi người chia nhau khiêng cá hộp, sữa hộp, đường trà... Ai nấy đều vui mừng hiện lên nét mặt. Như vậy là không sợ bị đói nữa rồi, người ở đất liền đã biết tới đám người tỵ nạn ở đảo. Có cảnh sát biết, có Hồng Thập Tự biết. Buổi tối đó cả trại vui như Tết. Chiêu trở về ở chung với mấy đứa em tôi. Tôi qua lều tụi nó, dưới ánh đèn tù mù, nói chuyện tới khuya. Nhờ anh em đông nên lều được cất khá lớn và rộng rãi. Câu chuyện nổ dòn như bắp rang. Bây giờ Chiêu như một cái gạch nối, liên lạc tin tức giữa đảo với đất liền. Trên nửa tháng trời trên đất Mã Lai mà chúng tôi có biết gì đâu ngoài chuyện Tăn Ku với bà Chiều Tím, chuyện mấy thằng khỉ đột Zăm Bri, thằng võ sĩ rụng răng Johny, thằng già dê "ti đu," thằng già Adidas... rồi hết. Nếu có ai hỏi tôi rằng Mã Lai cảnh vật ra sao, tôi không ngần ngại mà nói rằng ở đó dừa nhiều lắm, chỗ nào cũng có dừa mọc. Đất nước Mã Lai trong tôi lúc bấy giờ là đảo Dừa! Tôi biết chỉ có bao nhiêu đó mà thôi. Theo Chiêu thì ngoài trại Marang để dành riêng cho những người đi định cư còn có trại Bidong, Kota Bharu, Kuantan, Mersing, Pésa, Mérang, Kuching... trại nào cũng chứa người tỵ nạn đông lắm. Lần lượt nó nói tới các thủ tục để đi định cư ở đệ tam quốc gia... Tôi ngồi nghe mê mẩn trong đầu tưởng tượng ra đủ thứ chuyện kỳ thú, chuyện nào cũng hấp dẫn say mê. Trong lều cây đèn dầu cặn làm bằng hộp lon lượm được, tỏa ánh sáng tù mù, mùi khói hôi rình. Mặt mày đứa nào đứa nấy nhá nhem không rõ. Nhưng tôi thấy hết được niềm vui của tụi nó trong câu nói, trong tiếng cười, trong hơi thở. Tôi biết rất rõ vì tình cảm của tôi đối với Chiêu ra sao thì các em tôi cũng y như vậy. Chiêu dễ thương quá, nó tốt đối với mọi người.

Trong khi anh em tôi hàn huyên tâm sự thì văng vẳng từ xa vang tiếng chửi lộn ồn ào. Tôi rán lắng nghe. Ban đêm gió lồng lộng, tiếng chửi chợt thoắt chợt hiện. Lần nầy rõ ràng tiếng người Tàu chửi nhau bằng tiếng Việt. Giọng nói líu do. Tôi bước ra khỏi lều thấy một đám người lố nhố ngoài bãi cát. Chiêu bước ra theo tôi:

-- Chắc là vụ thằng Hiếu với Hủ Tiếu rồi. Hồi còn ở Marang nó có nói với em khi về thế nào nó cũng kiếm Hủ Tiếu để thanh toán.

Tôi chợt nghĩ ra:

-- Ừ ừ đúng rồi hôm trước thằng Xám Mã Chải cũng có chửi Hủ Tiếu một lần về vụ bỏ thằng Hiếu với em ở lại Marang...

Trên bãi cát một bóng người cao lêu khêu đi hướng về lều anh em tôi đang đứng, chừng lại gần mới biết là Dân "gì đó." Nó ôm lấy Chiêu mừng rỡ:

-- Hồi chiều gặp anh mà chưa nói chuyện nhiều gì đó. Tính lại chơi hồi nãy mà bị cái vụ gây lộn của Xám Mã Chải với Hủ Tiếu phải ở lại coi gì đó.

Tôi xen vô:

-- Sao Dân thấy cái gì vậy nói cho tụi anh nghe coi...

Nó quơ tay cười hở miệng thấy cái răng vàng sáng lên trong bóng đêm:

-- Anh em thằng Xám Mã Chải nhảy cò cò đòi đánh Hủ Tiếu. Đám Hủ Tiếu đông quá có A Son, A Tài, Nhựt Bổn dàn ra nên tụi nó không làm gì đó được. Cuối cùng rồi hai thằng phải vịn vô nhau đứng bên ngoài lều chửi vọng vô gì đó cho vợ con Hủ Tiếu nghe. Nó chửi đủ thứ chuyện... Nhưng bây giờ thì hết chửi rồi.

-- Bộ Hủ Tiếu xin lỗi nó hả?

-- Đâu có Hủ Tiếu cũng chưởi lại chớ đâu có xin lỗi gì đó.

-- Nhưng tại sao lại không chửi nữa?

Nó lại cười nhăn chiếc răng vàng:

-- Chửi làm sao được nữa gì đó. Thằng "ti đu" xách đèn pin đi xuống kêu "ti đu, ti đu" gì đó um sùm. Ai nấy riu ríu đi vô lều ngủ hết gì đó. Thằng Hiếu với thằng Xám Mã Chải cũng nhắc cò cò gì đó đi về. Có muốn chửi nữa cũng không được!

Nói xong nó nắm tay Chiêu hỏi:

-- Anh Chiêu cũng bị bỏ trên bờ y như Hiếu gì đó nhưng anh có ghét Hủ Tiếu không?

Chiêu suy nghĩ một hồi khá lâu, trả lời:

-- Không. Theo anh thì không buồn gì Hủ Tiếu hết. Ở địa vị của ông ta thì phải làm sao bây giờ. Đổ bộ xuống thì không được, ghe đông người quá mà tụi Mã Lai làm dữ không cho, ở lại hoài thì neo đã đứt sóng đánh hoài tàu lắc lư chịu làm sao nổi, chỉ có cách là bỏ ra đảo như vầy rồi thủng thẳng tính... Trước sau gì mình cũng gặp nhau mà.

-- Ừ em cũng nghĩ như vậy. Không phải em binh Hủ Tiếu gì đó, nhưng em thấy anh em Xám Mã Chải nóng quá... À à hồi nãy khi tụi nó chửi lộn gì đó em thấy có một chuyện gì đó ngộ hết sức...

Nói xong nó đứng nhăn hàm răng cười. Cái thằng thiệt tình, khi nào có chuyện gì éo le, ly kỳ thì nó tỉnh rụi.

Tôi nghe nó nói xong, chờ hoài sốt ruột hối:

-- Mầy thấy chuyện gì mà ngộ hết sức. Nói đại cho rồi chuyên môn cù cưa cù nhằn. Ba cái vụ gây lộn thì loay hoay cũng có bao nhiêu, chớ có cái gì mà ngộ?

Nó bỗng ngưng cười, hỏi tôi:

-- Anh biết cô em vợ Quách Linh Hoạt không?

Tôi ngạc nhiên:

-- Cái thằng nầy, đương nói chuyện gây lộn tự nhiên xen vô hỏi chuyện đàn bà con gái. Bộ Dân muốn anh làm mai cho cô đó hả. Ừa con nhỏ đó coi được lắm à nghen. Hồi còn ở Bạc Liêu anh thường lại chơi với Quách Linh Hoạt, con đó đẹp mà cũng dễ thương lắm.

Dân "gì đó" lại cười đập vào tay tôi:

-- Đâu phải em muốn gì đó. Tầm bậy nè. Hồi nãy khi anh em Xám Mã Chải chửi Hủ Tiếu thì cô đó đứng cạnh bên anh Hiếu. Anh Hiếu đứng có một chưn có lần muốn ngã, ảnh vịn vô vai cổ... mà cổ đứng im ru!

Rồi nó kết luận ngon lành:

-- Chắc hai người quen nhau gì đó lâu rồi...



Tôi cười ha hả: -- Cái thằng nầy nghi bậy nghi bạ. Hổng cho Hiếu vịn vai, xô nó ra nó té làm sao. Cái gì mà thắc mắc lạ lùng. Thằng Hiếu còn trẻ đẹp trai, con nhỏ đó đẹp gái, hai đứa có đá lông nheo thì cũng hợp lý hợp tình. Thôi thằng Hiếu được trở về đảo cũng mừng cho tụi nó... Mà em để ý mấy cái đó làm chi?

Tôi thấy thằng Dân "gì đó" có vẻ lựng khựng, bèn hỏi:

-- Mà anh hỏi thiệt nè, nếu quả thiệt con nhỏ đó thương thằng Hiếu, em có buồn gì đó không?

Nó trả lời xuội lơ:

-- Thiệt mà, em đâu có thương ai. Thôi em về, mai em qua chơi gì đó với anh Chiêu... Cũng khuya lắm rồi... cả trại đã ngủ hết gì đó!

Nó về rồi tôi mới thấy mình lãng nhách. Chọc làm gì để nó nói chuyện nghe cho vui. Tối nay rằm hay mười sáu, trăng lên co tròn như cái nia tỏa ánh sáng vàng nhàn nhạt. Trăng lốm đốm hình thằng Cuội già ngồi dựa gốc cây đa sù sì, trong bụng ôm một giấc mơ. Cuội mơ tìm người yêu đã bao năm qua? Chắc Cuội không đẹp trai hay Cuội vì nhút nhát quá không dám nói, cứ ngồi ôm gốc cây hoài?

Nó quay về bước chầm chậm tránh gay góc hầm hố, dáng lêu khêu lỏng khỏng. Bãi cát loang loáng ánh trăng. Gió thổi mạnh từng cơn, lá dừa xào xạc trên đầu. Tôi phân vân trong bụng câu chuyện vừa rồi, không biết là Dân "gì đó" kể lại vụ Hiếu vịn vai em vợ Quách Linh Hoạt là do tình cờ chứng kiến nhắc lại cho vui hay là anh ta ghen tức?

-- Chiêu nè, em đoán coi Dân "gì đó" có gì đó với em vợ Quách Linh Hoạt không?

Chiều cười trả lời:

-- Làm sao biết được chuyện trong bụng nó, cũng dám có lắm à nghen!

Rồi hai đứa xúm nhau cười ngất, chia tay nhau về ngủ trong niềm vui sướng đầy tràn. Cuộc đời tự nó vốn đẹp và dễ yêu hết sức, nếu mình biết cách lựa lọc những chi tiết ngộ nghĩnh chung quanh với một cõi lòng khoan dung vui vẻ và nhân ái. Cũng như biển cả bao la thu nhận tất cả nước đục và trong của muôn ngàn sông suối đổ về. Nước đục cùng rác rưởi cặn cáu lắng dần xuống tận đáy đại dương sâu thẳm rồi mất hút, còn lại là khối nước trong xanh muôn đời reo vui.

Sáng sớm hôm sau, cả nhóm sắp hàng đi lãnh thực phẩm. Chị Thùy Dương, thay mặt đám tỵ nạn làm trưởng toán đã nằm dài trong lều lập danh sách hồi tối hôm qua dưới ánh đèn cầy khi tỏ khi mờ. Nhờ có Bi nên gia đình tôi được kể ba người. Mỗi người được lãnh bốn lon gạo, một lon đường, một hộp cá mòi nhỏ cùng trà và muối. Gia đình nào có trẻ em dưới hai tuổi được thêm mỗi em năm hộp sữa đặc có đường. Hộp sữa hiệu Blue Cross màu xanh cao gấp đôi hộp sữa Ông Thọ của mình. Sướng quá, vừa hết gạo thì được tiếp tế đúng lúc. Cả đảo bừng lên sinh khí, mặt mày ai cũng tươi rói cười nói rần rần. Người nầy chạy qua lều người kia để mồi lửa nhúm bếp. Các bếp mấy hôm trước lạnh tanh, nay lửa đỏ reo vui bập bùng. Con nít tràn ra đầy bờ biển chạy giỡn nô đùa như những ngày mới tới. Gạo Mã Lai xay thật trắng, thật nở nhưng ăn không dẻo hơi khô bời rời và lạt nhách. Tư Trần Hưng Đạo khám phá ra cách nấu cơm bằng nước biển mặn và truyền bí quyết lại cho. Mỗi khi nấu cơm tôi cầm cái gàu mên đựng gạo đi tuốt ra ngoài bờ nước, nơi có nước trong. Vo gạo xong rồi múc nước biển về nấu. Cơm chín ăn ngon hơn là nấu với nước giếng. Còn mì gói thì ngon hơn mì Chợ Lớn làm. Được phát nhiều nhứt là mì nấm. Tôi bắt đầu ăn cơm trở lại, chương trình nấu cháo dẹp qua một bên. Cá hộp ít quá, chỉ mới vài ngày là hết. Mấy ngày sau ăn cơm trộn mì. Mì trở thành đồ ăn để ăn với cơm. Buổi sáng lấy sữa khuấy với đường, vợ chồng cha con có được bữa điểm tâm sang hết sức. Cái ăn đã có rồi phải lo tới cái ở. Theo Chiêu nói chắc còn phải ở đảo nầy lâu lắm. Việc cần thiết là phải che lều, không thể tiếp tục cảnh màn trời chiếu đất như vầy, rủi gặp một trận mưa lớn thì sao? Mấy người xung quanh ai nấy cũng đã tìm cây, tìm văn dựng lều từ lâu rồi. Tôi nhìn quanh nhìn quất trong đống củi vụn ở gốc dừa có hai cây cột bự cỡ một tấc vuông dài độ một thước, được người ta lấy ra từ các ghe mục, không dùng được việc gì nên bỏ đó. Tôi è ạch khiêng về, xin thêm vài cây tre của Út Trung còn dư, bao nhiêu đó cũng đủ vật liệu cất một cái lều nhỏ như hồi xưa che lều chơi trò đám cưới. Chú rể là tôi nè, Duyên làm cô dâu là xứng đôi vừa lứa, còn Bi thì làm gì đây? Thôi làm khách đi dự đám cưới, đứng vỗ tay cho vui... Cái lều được dựng bằng hai cây cột bự đó, thấp chủm, gác mái lên lều anh Tư Trần Hưng Đạo. Mái lợp bằng lá cọ hình rẽ quạt giống như lá dừa nước. Gia tài chỉ có con dao nhỏ. Tôi cầm dao rủ Chiêu và Dân "gì đó" thì theo để phụ ôm lá vác về, cả ba đi sâu vô rừng vì ở các vùng gần và dễ đi người ta đã cắt sạch trơn rồi. Ở phía tận bên trong rừng xanh thăm thẳm, cọ mọc từng bụi lớn san sát um tùm. Rẽ cỏ mà đi vì chưa có dấu chưn người. Tôi lựa những cọng cọ lớn lá xanh dầy cắt một hơi cả ôm, nhiều quá ba đứa vác không muốn nổi. Về tới tôi lựa ra chất ngang chất dọc đầy trên nóc lều. Thế là xong cái mái. Rồi chạy ra mé biển lượm sợi dây đỏi ghe đem về tách nhỏ ra cột chặt các tàu lá cho khỏi bay. Vào trong lều nhìn lên trời tuy thấy còn nhiều tia nắng nhỏ nhưng đã dễ chịu hơn lúc còn che tấm ny long mỏng manh. Các ngày sau tôi lại vô rừng cắt thêm lá sắp lên nóc cho dầy thêm. Lều kín đao hoàn toàn. Bốn bề cũng bằng lá cọ che kín, mặt hướng ra biển có chừa một cái cửa nhỏ để ra vô. Trong lều giăng xong cái mùng là vừa hết chỗ. Dưới sàn trải cát phẳng phiu rồi lót tấm ny lông lên trên làm nền. Đi đứng nằm ngồi cát bám đầy. Chỉ có cái lều nhỏ cheo leo trên bờ biển sao mà hạnh phúc quá sức. Tôi còn mong gì hơn!

Không, tôi vẫn còn mong chớ. Mong ngày được dời qua đảo Bidong, nơi đó có trại tỵ nạn, có Cao Ủy Liên Hiệp Qốc, có phỏng vấn để được đi định cư... Mỗi sáng, mỗi chiều tôi bồng con ngóng trông ra biển, chờ đợi. Bi sau khi kêu được vài tiếng ba ba, má má, đã bắt đầu bập bẹ. Những lúc trời mát mẻ, nó nghiêng mình ra phía trước chưn đạp chòi chòi vô hông đòi... đi chơi. Hai cha con thường thơ thẩn đi dọc theo bờ nước. Những chiếc ghe mục rã đầy sỏi cát rong rêu nằm rải rác đây đó. Bao nhiêu ghe đã tắp vô đảo Dừa hoang vắng, bao nhiêu người đã đặt chưn lên bờ cát nầy, tôi không biết. Chỉ biết vào khoảng chín giờ sáng hôm đó trời đã chan hòa ánh nắng trên biển xanh, một chiếc ca nô cảnh sát sơn màu trắng chữ xanh chạy vun vút từ ngoài khơi vào đậu cặp cầu tàu. Nó kéo theo một ghe vượt biên nhỏ xíu. Đám đông bu quanh, tôi bồng Bi chen vào. Mọi người nhìn chiếc ghe lom lom. Nó nhỏ quá. Chiếc ca nô cảnh sát đã nhỏ, nó đậu cặp sát bên, nhỏ hơn thấy mà sợ. Ở cầu tàu sóng nhỏ lách chách vậy mà nó trồi lên hụp xuống như sắp lật tới nơi. Nó chỉ lớn hơn chiếc xuồng tam bản chút xíu. Tôi nhìn kỹ trên ghe ai nấy đều tươi tỉnh, thầm đếm tất cả được mười một người, phần lớn là đàn bà con nít, chỉ có hai người đàn ông thay phiên nhau lái. Hỏi thăm được biết các người đó ở Tân Định, bà chủ ghed làm y tá ở bịnh viện đô thành. Bà người Huế, dáng người lanh lẹ tháo vát chỉ huy cáng đáng mọi việc. Bà sửa soạn chiếc ghe chu đáo và ra khơi. Khi ngang qua Côn Đảo gặp sóng gió tưởng đâu đã chìm may nhờ trời thương, thoát khỏi. Tối hôm qua ghe ủi đại vào bến Marang cả đám kéo nhau vô ngủ trong một trường học. Bà nói tới cái địa danh Marang, tôi nhớ lại cái bãi tắm ghe tôi bị bắn đuổi ra, Chiêu Hiếu lội vô bờ bị đánh đập, bèn hỏi:

-- Khi vô Marang bà có bị tụi nó làm khó dễ gì không?

Bà cười, vẻ tự tin:

-- Cũng không có gì khó khăn lắm. Tôi đã chuẩn bị sẵn vàng đưa cho nó một ít. Nó tìm chỗ cho chúng tôi tạm nghỉ qua đêm rồi sáng nay kéo qua đây. Xin không được thì phải mua...

Trời, chuyện dễ như trở bàn tay như vậy, một người đàn bà bình thường cũng nghĩ ra được, vậy mà cả ghe tôi trên ba trăm người không ai biết cách giải quyết hết, thiếu điều chết lên chết xuống. Hủ Tiếu ơi là Hủ Tiếu, bị anh em Xám Mã Chải chửi cho một trận nghĩ cũng đáng đời! Ngu quá là ngu...

Tư Trần Hưng Đạo kề tai tôi:

-- Ê bồ, bây giờ tôi cho bồ mười lượng vàng, bồ vượt biên từ Việt Nam trở qua với chiếc ghe nầy, dám không?

Tôi lắc đầu le lưỡi, trong bụng thầm phục bà y tá Huế và gia đình nầy can đảm hết sức. Và trong cuộc vượt biên vĩ đại của toàn dân Việt Nam gồm cả miền Bắc, miền Nam, đường thủy, đường bộ biết bao nhiêu gương can đảm, anh hùng nữa mà tôi không biết?

Tôi quay qua hỏi lại:

-- Còn anh thì sao?

Anh Tư nheo mắt:

-- Thì cũng y như bồ vậy, tôi đâu có biết lội.

Nói xong hai anh em cùng cười rồi quay về lều. Trời đã bắt đầu nóng gắt. Tôi để Bi xuống cho đỡ mỏi tay. Duyên bắt đầu vo gạo để nấu cơm trưa. Thằng nhỏ đi chập chững vài ba bước cuối cùng ôm cứng lấy tôi miệng bập bẹ:

-- Ghe vượt... biên... ghe vượt biên...

Trời đất ông địa ơi, thằng Bi nói được mấy cái tiếng nầy rồi. Tôi ngồi im để coi nó nói lại ra sao. Thằng nhỏ níu lấy cánh tay tôi kéo mạnh, chỉ ra biển đòi đi chơi:

-- Đi coi... ghe vượt biên, đi coi... ghe vượt biên!

Tôi phì cười, bồng nó lên bước ra bãi cát, mới có chút xíu mà biết nói ghe vượt biên rồi. Chắc nó nghe mấy đứa nhỏ nói chuyện ầm ỹ nên bắt chước theo. Hai cha con bồng bế nhau đi trở ra cầu tàu. Chiếc ca nô cảnh sát đã đi mất. Đám bà y tá người Huế đang lo dựng lều tạm nghỉ ngơi. Tôi nhìn ra biển thấy một chiếc ghe xam xám đi ngang. Dám ghe vượt biên nữa lắm. Tôi chú ý nhìn kỹ hơn. Một lá cờ trắng treo ở cột định hướng. Nắng loang loáng trên biển xanh. Đúng rồi, ghe Việt Nam mình. Đám con nít đang nô đùa trên sóng, chợt thấy ghe chạy ùa lên la hét ầm ỹ:

-- Ghe vượt biên... bà con ơn ghe vượt biên!

Đám người trong lều lại túa ra lần nữa. Trên bãi cát ngoài những cây dừa cao vút là những trái tim nồng nhiệt đón chờ, tất cả đều náo nức kêu to:

-- Vô... vô...

Tụi lính trong đồn, giờ nầy chắc đang ăn cơm trưa nên chưa thấy bóng dáng anh nào, ai cũng sốt ruột lo sợ tụi nó ra cản trở gây khó khăn. Út Trung cầm cái khăn tắm phất lia phất lịa. Chiếc ghe xả hết tốc lực đâm thẳng vô bờ. Khoảng cách càng lúc càng gần. Tôi thấy hai chữ Phú Quí vẽ ở mũi ghe. Vậy là ghe nầy xuất phát từ đảo Phú Quí ở Nha Trang. Bi vỗ tay, miệng bi bô:

-- Ghe vượt biên, vô... vô...

Thằng nhỏ coi bộ vui hết sức, không hiểu nó nghĩ gì trong cái đầu non nớt kia. Tôi nhìn chiếc ghe phăng phăng trên sóng, xúc động nhớ lại những ngày trước đây cha con tôi cũng ở vào cái hoàn cảnh nầy. Ghe đã vô gần tới bờ. Thằng Johny, thằng "ti đu" đã chạy ra hầm hừ. Nhưng không kịp nữa rồi, chiếc ghe đã rướn lên bãi cát và dính cứng ở đó. Trên ghe lố nhố toàn thanh niên, không thấy ông già bà cả cùng con nít. Cũng không đông lắm chỉ độ hai mươi người. Tiếng ồn ào của đám đông mừng rỡ. Người ta cười nói, vỗ tay, la hét. Tăn Ku cũng vừa ra tới với đám thủ hạ. Nó chận đám đông lại không cho lại gần nhau. Bọn lính đứa nào đứa nấy đầy vẻ bực tức nóng giận. Số người mới đến được dẫn ngay lên bờ và bị biệt lập. Tất cả được dẫn về đồn sau khi đã bị lục soát lấy hết vật dụng, hành lý. Không biết do đâu mà người ta biết được nó đi từ Phú Quí (Nha Trang) đến đây đúng mười một ngày. Chiếc ghe hầu như bị hư nặng. Dưới lườn bị nứt những khe nhỏ bằng ngón tay. Nước vô đầy khoang sắp chìm, cũng may tới nơi kịp lúc. Cũng thời hai ghe vô đảo cùng một buổi mà những người thuộc ghe Tân Định được dựng lều thong thả cũng như liên lạc tiếp xúc với đám chúng tôi thoải mái. Trong khi đó ghe Phú Quí bị đối xử khắc nghiệt hơn. Họ bị cô lập gần như giam lỏng ở trong đồn, không ai được tiếp xúc. Mấy thằng Mã Lai nầy kỳ cục thiệt, không ai biết nó tính chuyện gì. Vài ngày sau vào buổi sáng sớm, có tin cho đi Bidong, cả đảo ùn ùn mừng rỡ. Nhưng đi qua Bidong bằng cái gì bây giờ, không ai biết hết. Tăn Ku từ trên đồn đi xuống, lo le cây gậy trong tay, sấn vô từng lều ra lịnh cho thanh niên trai tráng phải ra mé biển sửa soạn ghe tàu để chuẩn bị chuyến đi. Tôi giao Bi lại Duyên tâm trạng nửa mừng nửa lo. Mừng là sẽ được rời Kapas nhưng lo là đi qua Bidong bằng gì bây giờ. Trên bến không có một chiếc ghe nhỏ ghe lớn nào để chở số người quá đông đảo hiện có. Tôi ngó quanh ngó quất chỉ thấy những xác ghe hư mục sét rỉ cùng chiếc Phú Quí sắp chìm. Còn chiếc tam bản của bà y tá Tân Định thì cũng đầy vẻ tang thương, con mắt ghe sơn ở mũi chỉ còn phân nửa, một nửa đã bị tróc mất. Hết rồi, còn chiếc nào nữa đâu, ngó tuốt ra khơi chỉ thấy sóng dồi lớp lớp.

Út Trung đi bên cạnh nói:

-- Chắc nó đưa mình đi qua Bidong bằng chiếc Phú Quí nầy.

Tôi trề môi lắc đầu:

-- Cái ghe gần chìm, máy móc liệt hết trơn làm sao mà đi đâu. Bộ muốn giết hết tụi mình sao?

Đám người đông đảo đã tề tựu trên bãi cát, Tăn Ku đến đứng giữa lo le cây gậy ngắn trên tay cái mặt nghinh nghinh đáng ghét, chị Thùy Dương đứng cạnh thông dịch:

-- Có lịnh ở trên cho biết là tất cả sẽ được chuyển qua trại Bidong. Vậy yêu cầu những thanh niên khỏe mạnh đẩy chiếc ghe nầy ra khỏi cát lún...

Nó lấy gậy chỉ chiếc Phú Quí nằm kẹt cứng trên bờ rồi nói tiếp:

-- Pulau Kapas nầy với Pulau Bidong gần lắm. Chiếc ghe sẽ có thợ lại sửa chữa cho tốt. Rồi sẽ chở tất cả qua bên đó, chia làm nhiều chuyến đi. Yêu cầu các anh rán sức...

Nó vừa dứt lơi, cả đám vỗ tay hoan hô mừng rỡ. Pulau Bidong... Bidong niềm mong mỏi chờ đợi của tất cả chúng tôi. Không chờ nói tới lần thứ hai, mạnh ai nấy ùa xuống biển ra sức đẩy xô. Thôi kệ, tuy cũ kỹ nhưng nếu sửa chữa đàng hoàng thì ghe vẫn còn tạm dùng được. Có cũng còn hơn không. Ở đảo nầy gần hai mươi ngày rồi, buồn quá. Chiếc ghe vì lấy trớn quá mạnh để ủi vô bãi bây giờ nó kẹt cứng ngắt trong cát. Cả trăm thanh niên khỏe mạnh reo hò vang dội, dùng hết sức đun đẩy ghe cũng không xê xích một phân. Nó dài cỡ chừng mươi thước bằng cây vậy mà nặng hơn sắt cục. Tăn Ku sốt ruột ra lịnh cho thằng khỉ đột Zăm Bri cầm gậy đi lùng từng lều kiếm thêm người. Lần này có thêm được gần mười người tiếp sức nhưng đa số già cả lụm cụm. Ngoài biển bấy giờ có thêm một chiếc ghe cảnh sát. Như có chuẩn bị từ trước, nó từ từ cặp vào chiếc Phú Quí dùng dây lớn cột đằng trước mũi ghe, tất cả mọi người đều ùa về phía sau lái đẩy tới. Ghe được kéo đằng trước, xô đằng sau từ từ nhúc nhích. Anh em mừng rỡ, reo hò ra sức. Một chút... một chút rồi một chút nữa. Nó di chuyển từ từ, ghe cảnh sát tăng vận tốc nổ máy inh ỏi, chúng tôi rán hết sức bình sanh. Chiếc Phú Quí được kéo dần ra xa hơn, xa hơn nữa cuối cùng nó thoát khỏi cát lún, nổi bềnh trên sóng nhấp nhô. Cả đám vỗ tay cười lớn mừng rỡ reo vui. Tất cả mọi khuôn mặt sáng tươi rạng rỡ. Chỉ còn chờ thợ tới sửa cho kỹ càng, châm thêm dầu mỡ, coi lại máy móc là có thể yên chí ra đi. Tôi cúi xuống rửa tay xong, vui sướng đứng ngắm chiếc ghe. Nào ngờ thằng võ sĩ rụng răng Johny tự nhiên kéo cò súng lên đạn rốp rôp, chĩa thẳng vào đám đông ngơ ngác đuổi hết lên bờ. Đi nữa, đi nữa, ra xa... tất cả phải trở về... Đám cảnh sát cũng ùa xuống ghe cấm người người ra khỏi lều. Tôi đứng lấp ló trong cửa, thắc mắc trong bụng, cái gì kỳ cục vậy? Các lều xung quanh cũng thập thò, những gương mặt ngạc nhiên sững sờ. Không ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Tụi Mã Lai nầy sao cũng giống Việt Cộng, làm việc kín đáo và bí mật, nhứt là dối trá. Trước mặt tôi bây giờ là một đoàn người bị áp tải ra ghe. Các bạn của chiếc Phú Quí bị biệt lập hôm trươc và có thêm vài thanh niên của chiếc Rạch Giá tới từ lâu. Đi kèm xung quanh là toán lính đằng đằng sát khí, vừa đi vừa nạt nộ. Những anh em tỵ nạn thất thơ thất thểu quần áo xốc xếch cố gắng chống cự trong tuyệt vọng để mong được ở lại. Có một người trạc độ ba mươi lăm, ba mươi sáu dáng trí thức đeo kính trắng bước ra tranh luận với Tăn Ku. Hắn không nói không rằng lấy hết sức đánh mạnh vào đầu vào cổ của anh. Cây gậy phang vun vút. Anh đưa tay đỡ gạt. Cái kiếng văng xuống cát bể nát. Đám lính xông vào tha hồ đấm đá. Anh gục xuống tả tơi như cái mền rách. Tôi nghe nhói trong tim. Một nỗi đau đớn khôn cùng. Cả người tôi sững sờ, tê dại... Khi anh ngất đi tụi lính xúm lại khiêng bỏ lên ghe. Các người còn lại sợ hãi thất thểu leo lên theo. Tuy ở khá xa tôi cũng cảm thấy những tiếng kêu đau đớn, những gương mặt thất thần, những dòng nước mắt tuôn trào... lòng tôi tan nát.

Chiếc ca nô cảnh sát đi trước dòng theo sau chiếc Phú Quí bập bềnh ngoan ngoãn như con cừu non. Không một bàn tay vẫy tiễn đưa. Tôi rán nhìn kỹ trên ghe, không thấy một ai nhúc nhích. Còn gì để nói nữa. Cả đảo ngậm ngùi cho những người bạn tỵ nạn xấu số. Tư Trần Hưng Đạo chun qua lều than thở:

-- Tụi Mã Lai nầy mọi quá, nó đánh người dã man. Phải chi mình đi luôn qua Singapore, ghé vô đây làm chi, khổ quá nè trời. Nó kéo trả về Việt Nam thì chết cả lũ. Không biết tại sao mà nó lại kéo chiếc Phú Quí ra khơi?

Thấy anh rầu rĩ lo lắng mà tôi run.

-- Anh Tư nè, theo anh thì các bạn trên chiếc Phú Quí hiện giờ ra sao? Có cách gì để thoát được không?

Tư Trần Hưng Đạo suy nghĩ một hồi:

-- Ra tới hải phận quốc tế tụi Mã sẽ chặt dây để đuổi trở về Việt Nam. Mấy "dã" có thể rán cầm cự cho đừng chìm, lênh đênh tắp vô một bến khác hoặc chờ gặp một ghe nào rộng còn tốt xin quá giang... cái đó là mình hy vọng, còn thực tế thì gặp đâu tính đó, đâu ai biết trước được. Tất cả mọi sự đều... nhờ trời!

Buổi chiều tối hôm đó cả đảo im vắng khác thường. Không còn tiếng nói chuyện nô đùa, không có kẻ nhàn du, đám con nít cũng đâm run thôi không chạy giỡn. Hình ảnh ban sáng đè nặng trong tâm tư tất cả mọi người ở lại. Chiếc Phú Quí mục nát như một ám ảnh chập chờn. Cái bánh lái cong queo, dưới lườn những lằn nứt rộng cỡ ngón tay, máy nổ rền rĩ như ông già lên cơn thở dốc... Nhưng biết làm sao bây giờ, con cá đã nằm trên thớt chỉ còn biết chờ chảo mỡ sôi! Tôi vụt nghĩ tới chiếc BL 1648 của tôi. Chiếc Phú Quí dầu sao cũng còn nổi trên mặt nước, còn chiếc BL 1648 bây giờ đã chìm tới ngang hông, làm sao mà chèo cho tới Bidong? Tôi nhìn Duyên và Bi tự hỏi -- bao giờ thì tới phiên mình?

Chiếc Phú Quí vừa bị kéo ra khơi ngày hôm trước thì ngày hôm sau vào buổi trưa êm ả, ở tận ngoài khơi một ghe tỵ nạn xuất hiện. Người ta lại túa ra đầy trên bãi cát la ó vang rân. Kẻ ngoắc, người hô. Bi lại đòi tôi bồng đi coi ghe vượt biên. Hình như thời gian ở đảo nầy nó chỉ nói được có câu đó -- ba, ba, đi coi... ghe vượt biên. Chiếc ghe đen loáng nắng không đoái hoài gì tới đám đông đương kêu gọi, vẫn bình thản đi luôn. Mọi người tiu nghỉu, giải tán từ từ. Còn lại trên bãi một số người ngóng trông chỉ chỏ. Tháng nầy biển thật êm, sóng chỉ gợn lăn tăn như trong mặt hồ. Nào dè một lúc sau nó lại quay trở lại nhưng chạy chậm chậm không có vẻ gì muốn vô. Đám người trong đảo lại một lần nữa vẫy tay reo hò kêu gọi. Nó do dự một hồi rồi mở máy thật mạnh đâm thẳng vào bãi. Tụi lính Mã khi hay kịp thì chiếc ghe đã vào tới bờ. Chiếc nầy khá lớn dài khoảng mười bốn thước, tình trạng còn khá tốt. Người trên ghe lần lượt leo xuống xác xơ, tơi tả, phong sương. Có đàn bà, con nít, độ bốn mươi người. Một ông già mặc quần áo nông dân bồng một đứa nhỏ khoảng mười tuổi nằm thiêm thiếp trên hai tay. Cái chưn của đứa bé bị thương được quấn bằng vải trắng đẫm máu đỏ tươi. Mặt em bé trắng bệch vì kiệt sức. Chúng tôi bao quanh, người nào cũng lộ vẻ ái ngại. Bà y tá Tân Định cùng cô con gái lớn chạy về lều lấy dụng cụ thuốc men cùng bông băng lại săn sóc. Tội quá! Thằng bé xanh mét nằm im không nhúc nhích. Cuộc hành trình trên biển đã ngất ngư rồi lại còn bị thương nữa, làm sao chịu nổi. Cũng may sao lại được vào Kapas sớm và cũng may lại có hai mẹ con bà y tá Huế ở đây. Tụi lính Mã Lai thấy có người bị thương cũng trơ mắt ra đứng ngó, chúng cũng không biết phải làm sao. Hôm nay chúng lại yên lặng không đuổi xô, không bắt biệt cư những người mới tới. Cũng không hiểu tại sao. Tôi thấy ông già bồng đứa nhỏ khi nãy đã rảnh rỗi đứng không, bèn lại hỏi chuyện:

-- Thưa bác, mấy người trên ghe có cần nước uống cho đỡ khát?

Ông khoác tay vẻ vạm vỡ, nói năng chững chạc:

-- Cám ơn cậu, không cần, còn nhiều lắm. Tôi có đủ hết!

Từ trong khoang những người thanh niên trai tráng lần lượt khiêng đồ đạc dụng cụ lên bờ. Có lẽ ông già nầy là chủ ghe nên đồ đạc gồm có đủ thứ, mấy cái lu đựng nước ngọt, hai cái tủ đựng quần áo, một cái tủ đựng đồ ăn, mấy cái ghế cùng hai cái bàn. Ngoài ra là quần áo, dao kéo lủ khủ. Đặc biệt nhứt là cái chuồng chim, bên trong có con sáo nhỏ. Thiệt tình tôi chưa từng thấy ai vượt biên mà được như ông.

-- Bác khởi hành từ đâu vậy? Tôi thấy em bé bị thương...

-- Tôi ở Gò Công, ghe nầy của tôi đó. Mấy đứa nầy là con cháu không hà, tôi không rước người lạ mặt đâu. Từ bển qua tới đây êm xuôi quá nào dè khi vô tới bờ Mã Lai bị tụi nó bắn đuổi đi, đạn lạc trúng vô chưn thằng con út tôi. Trên ghe đâu có thuốc men gì, phải lấy vải băng đỡ. Ghe phải bỏ đi nơi khác, mãi mới tới đây...

Tôi nhớ tới Marang, nhớ tới người Mã Lai ở trong khoang thuyền chui ra có cây súng bắn vào chiếc BL 1648, may mà không trúng ai. Tiếng ông già đều đều:

-- Khi đi tới đây tôi thấy có nhiều gian lều che tạm, thấy có xác ghe vượt biên, biết là có người tỵ nạn mình nhưng chưa dám vô, sợ bị bắn nữa. May nhờ mấy cậu ngoắc nên liều mạng vô đại...

Xong rồi ông hỏi lại tôi:

-- Cậu vô đâ bao lâu rồi. Ở đây lâu biết cái gì hay chỉ cho tôi với.

-- Dạ chỉ mới có trên hai mươi mấy ngày thôi. Có người ở trên hai tháng rồi đó bác. Lúc nầy thì không sợ đói nữa, có Hồng Thập Tự Mã Lai tiếp tế rồi, chuyện cơm gạo khỏi lo. Có điều tụi Mã nầy chờ mình ổn định xong thế nào cũng kêu tập họp để xét kiếm vàng. Bác rán dấu cho kỹ, đừng cho tụi nó lấy uổng lắm. Nhớ cất luôn đồng hồ, cà rá...

Rồi tôi dặn dò:

-- Hay nhứt là đào lỗ chôn dưới cát, nhớ kỹ chỗ mình chôn. Khi nó xét xong mình đào lên lấy lại...

Ông già gật đầu cám ơn, bình thản. Tôi chợt thấy một người trạc ba mươi bảy, ba mươi tám đứng riêng một mình dưới gốc dừa. Tướng tá liền lạc, vẻ mặt đẹp trai hao hao giống Thành Được. Nhưng nét mặt nầy là nét của người Bắc chớ không giống nét người Gò Công, con cháu của ông chủ ghe. Gương mặt sáng sủa, cử chỉ đàng hoàng, tôi bèn lân la làm quen:

-- Anh đi mấy ngày mới tới đây. Ghe coi còn tốt quá...

-- Đúng ba ngày ba đêm. Tôi có đủ hải bàn và hải đồ của chuyến đi...

Tôi đoán đúng phóc, anh ta nói giọng Bắc.

-- Tôi lái từ cửa Cần Giờ đâm thẳng qua tới đây. Cũng may mùa nầy biển êm.

-- À thì ra, anh là tài công nên tôi thấy không giống người trong gia đình của bác chủ ghe...

Anh ta thấy tôi làm quen nên dễ dàng tâm sự:

-- Từ Việt Nam qua Mã Lai nầy đi cũng không khó lắm. Trong nghề cũng quen. Ngày trước tôi là Trung úy Hải quân, sau bảy mươi lăm bị đi học tập. Bị hành hạ đủ kiểu giận đời giận mình tôi liều gan trốn trại, trở về Sài Gòn. Nhà tan cửa nát tứ cố vô thân, sống trốn chui trốn nhủi bữa đói bữa no, đêm ngủ ngoài hè phố...

Tôi nhìn anh cảm động. Anh giải nghĩa:

-- Cũng còn bạn bè, người quen nhiều nhưng không dám nhờ vả sợ bị lộ. Ngủ ở đường xá vậy mà bảo đảm, hễ thấy động thì trốn được liền...

Rồi anh cười:

-- Y như cái bang bốn túi... tự nhiên biến thành đệ tử Hồng Thất Công!

Tôi nheo mắt nhìn nghiêng, chọc:

-- Cái bang mà đẹp trai sáng sủa như anh... thiệt cũng khó trốn tụi công an dữ. Làm sao mà qua mặt nó được. Tui mà làm công an là xét giấy anh liền...

Cả hai cùng cười. Anh mặc cái quần tây dài rách gối, ở trần da sạm đen vì nắng gió nhưng ánh mắt sáng ngời niềm vui. Anh tiếp:

-- Trong lúc lúng túng không biết làm sao thì may quá, bác chủ ghe đang tìm một người tài công, một người bạn giới thiệu tôi nhận lời liền, không điều kiện gì hết...

Ở gần giếng nước những người mới tới tắm rửa, giặt giũ, lấy nước nhộn nhịp, người nào người nấy quần áo tả tơi, râu tóc rối bời. Trong đám đông đó bao nhiêu người tài giỏi, những người con yêu của đất nước, cũng như anh bạn mới nầy, chỉ cần trời đất nổi một cơn gió bụi là tất cả giá trị đổi thay. Giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu... nhiều khi do mình quyết định nhưng cũng có khi do trời! Tôi nắm tay anh từ giã, nói câu hy vọng:

-- Thôi kể từ giờ chúng mình kể như hết xui, từ từ làm lại cuộc đời...

Anh cười, tôi nói tiếp trước khi ra về:

-- Tối nay là Mã Lai xét lấy vàng với đồng hồ đó. Có cái gì giấu được thì giấu đi.

Nắng đã đổ lửa, tôi biết Duyên đang chờ cơm nên vội đi về. Đôi dép đứt che nóng không nổi đôi chưn nên nghe như muốn phỏng. Tôi nghĩ về người rồi nghĩ về mình, tự nhiên đang sống đời dạy học yên vui rồi bỏ nhà bỏ cửa lang thang nơi góc biển chơn trời, nằm trên bãi cát nóng khô mà chờ đợi... Thiệt tình Định Mạng cũng khá cắc cớ, lấy con người ra làm trò chơi, hèn chi hàng ngàn năm trước Trang Tử đã phải thốt "thiên hạ bất nhân dĩ, vạn vật như sô cẩu," lấy rơm bện hình con chó để trên bàn thờ sì sụp cúng tế, cúng xong rồi đem đốt quăng ra vỉa hè. Cũng thời là một vật khi thì coi quý, khi thì chê bai. Đời là vậy đó. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Tôi quay lại nhìn thấy anh bạn tài công Thành Được đứng bên gốc dừa bập bập điếu thuốc rê. Anh đưa tay vẫy vẫy... Đúng là cùng một kiếp bên trời lận đận, có cùng chung hoạn nạn mới hiểu và thương nhau!

Út Trung ở trần đen thui, từ đằng xa chạy lại, hai tay khệ nệ ôm lấy một vật gì lớn cỡ trái mít dáng hối hả lật đật. Tới chừng lại gần mới biết là một cục nước đá bám đầy cát bụi, trời nóng nước tan nhểu ròng ròng xuống mặt cát trắng khô lốm đốm hình sao. Tôi thấy cục nước đá, tự nhiên mồ hôi tươm ra:

-- Bộ chú Út mò được ở đằng ghe quốc doanh đó hả. Ở đảo nầy mà có được nước đá lạnh thì đã thiệt... Lâu quá không được uống lạnh thèm hết sức!

Trung vừa nói vừa hít hà hai bàn tay đỏ ửng vì cầm cục đá quá lâu:

-- Một hầm chứa đầy nhóc ở dưới khoang. Người ta đương giành ào ào trên đó. Em lẹ tay lấy được cục nầy... Phải kiếm một cục đá để đập nhỏ ra...

Thiệt đúng với câu "Sống là tranh đấu." Từ ngày xuống ghe tới giờ, tôi thấy muốn có cái gì cũng phải giành giựt. Lẹ tay thì còn, chậm tay thì hết... trơn. Anh bạn trẻ nầy lẹ tay lẹ chưn thiệt tình. Mà phải vậy mới tranh nổi với tụi thằng Cẩu Chải, thằng A Son, A Tài... Bi lần đầu tiên uống đá lạnh trố mắt nhìn sững, đẩy cái lon ra. Tôi cố ép. Thằng nhỏ uống thử thấy được, bèn đòi uống riết. Út Trung cầm lon đá lạnh vừa uống vừa lắc lanh canh. Tôi uống một hơi nghe mát lạnh từ kẽ răng đến chưn tóc. Đã thiệt tình!

Hồi sáng nầy một chiếc tàu quốc doanh đến đảo. Nó to như chiếc tàu sắt và mới hơn chiếc BL 1648 của tôi, từ ngoài khơi bao giờ, không ai thấy (có lẽ vì lớn quá người ta chỉ chú ý các ghe vượt biên nhỏ! Cái gì nhỏ thì mới đáng thương?) lừng lững tiến thẳng vào bờ, hiên ngang đậu cặp cầu tàu. Nó uy nghi, đường bệ nên cả đám đông đứng ngây người ra nhìn quên mất việc vỗ tay reo hò mời đón như lệ thường. Hai bên thành được vẽ sơn đỏ đậm nét số ghe Quốc Doanh Kiên Giang 069. Vững chắc, đẹp đẽ, nó đậu sừng sững bên bờ đảo Dừa. Tăn Ku cùng đám bộ hạ lên ghe kiểm tra. Trên tàu còn nguyên vẹn hai giàn lưới cá loại lớn nhứt với đủ máy móc cần trục và các hầm tôn, hầm cá. Chiếc nầy vượt biên trong khi đi lưới nên không đem theo gia đình và hành khách. Từ tài công đến thủy thủ chỉ vỏn vẹn có sáu người. Tôi nhìn cái tàu mà ngẩn ngơ. Nếu so với chiếc BL 1648 thì nó có thể chứa ít nhứt là năm sáu trăm người...

Út Trung sau một hồi uống lạnh tỉnh táo bèn nói:

-- Thằng Tăn Ku kỳ này no đủ. Nó lấy nguyên một hầm tôm lớn. Nó bắt mấy người đứng coi ở gần phải khiêng về đồn.

Tôi tiếp:

-- Hầm tôm đó ăn thua gì. Nó sẽ bán hai giàn lưới nè, gỡ máy ra bán luôn, bán dầu diesel chạy máy, bán phụ tùng dụng cụ, cái gì bán được gỡ ra bán hết cho các ngư phủ xung quanh xong rồi đục bỏ vỏ tàu để cho chìm... Như vậy kể như chìm xuồng. Sáu người trên tàu đem nhập chung với đám tụi mình. Ai biết? Tha hồ về Kuala Trengganu du dương với người đẹp!

Út Trung tiếp:

-- Hồi nãy có nghe nó nói còn mấy hầm cá đem phát cho mình. Thế nào chiều nay mình cũng có cá ăn. Nước đá lấy hết rồi, không cho cá tụi mình, nó ươn sình lên hết sao?

-- Có nước đá uống rồi lại có cá tươi ăn, sao mà sướng quá vậy chú Út? Chắc tụi mình sắp lên hương rồi...

-- Cũng chưa sướng lắm. Em mới nghe người ta nói một tin sướng hơn...

-- Tin gì mà sướng dữ vậy?

-- Bà Chiều Tím muốn cạnh tranh với mấy thằng lính Mã, hạ giá hàng hóa xuống phân nửa. Bây giờ anh muốn đổi cái gì cũng được gấp đôi lúc trước... Mà không có vàng bây giờ thì có thể thiếu chịu, mai mốt chừng nào có thì trả!

-- Trời, bả chịu chơi ngon lành. Nhưng hiện tại thì đâu còn thiếu hụt như trước nữa. Hồng Thập Tự tiếp tế lần thứ hai rồi. Thiếu chịu thì khoái thiệt đó nhưng trước hay sau gì cũng phải trả cho bả chớ... hổng lẽ giựt...

Vừa nói tôi vừa nghĩ ngợi. Tự dưng bà Chiều Tím lại hạ giá hàng gấp đôi, sao kỳ lạ vậy? Chắc là lời nhiều quá rồi, đổi rộng rãi hơn để lấy tiếng chăng? Vô lý, trên đời nầy có ai cho rằng mình đã giàu quá, không cần tiền nữa! Còn hạ giá để cạnh tranh thì càng vô lý.

Tụi lính Mã đi qua đất liền mua bán trực tiếp bên đó, còn bà ta phải nhờ Tăn Ku mua dùm, làm sao được giá rẻ hơn. Thiệt là nhức cái đầu nghĩ không ra. Thiệt tình khi nào có chuyện gì liên quan tới người đẹp là đầu óc tôi rối mù, không tính chuyện gì ra chuyện gì được.

Đằng xa thằng khỉ đột Zăm Bri đi lại lều, tay cầm một rổ cá nhỏ. Trong những ngày gần đây, tôi và nó có dịp gặp gỡ, nói chuyện. Cái thằng coi cục mịch xấu xí nhưng thiệt thà chất phác. Tôi thường hỏi nó về đời sống, phong tục, tập quán người dân Mã. Nó cũng thường hỏi tôi về chuyện Việt Nam. Tôi khoái nó ở chỗ khi nói tới Cộng sản, nó thù ghét dễ sợ. Hình như ở Mã Lai không còn bóng dáng một người Cộng sản nào. Một phần nhờ chánh phủ quyết tâm tiêu diệt, một phần nhờ đa số dân chúng theo Hồi giáo. Tôi khoái đạo Hồi ở chỗ đó. Thử tưởng tượng trên trái đất nầy vào lúc chủ nghĩa Cộng sản hưng thịnh, các nước với tài nguyên dầu lửa phong phú Trung Đông cùng xứ Mã Lai, xứ Indonésia... mấy trăm triệu dân đó sẽ ngả theo Cộng sản tức thì nếu họ không theo Hồi giáo... Và lúc đó cục diện thế giới sẽ ra sao?

Thằng Zăm Bri đưa cho tôi rổ cá, những con cá nhỏ cỡ hai ngón tay, mặt buồn buồn:

-- Báo cho mầy một tin vui, ngày mai sẽ có ghe chở tụi mầy qua đảo Bidong.

Út Trung thoáng nghe, khựng lại. Tôi như nín thở:

-- Thiệt không Zăm Bri, bộ ngày mai tụi tao được đưa qua Bidong hả. Mầy làm sao biết được?

Nó quơ quơ cây gậy:

-- Tụi tao đã chuẩn bị ghe xong rồi. Có tất cả là ba chiếc để chở. Ngày mai sẽ có người đến để đưa tụi bây đi...

Tôi bắt tay nó thật chặt, cảm động mừng rỡ:

-- Tao cám ơn mầy nhiều lắm. Tối nay mầy có rảnh xuống đây chơi với tụi tao. Mai tao đi rồi, qua bên đó không biết bao giờ gặp lại nhau.

Tôi xúc động thiệt tình. Nó đứng lặng im. Trời trưa đứng nắng. Tôi không cảm thấy nóng chút xíu nào. Tôi đã ở đảo Dừa nầy đúng một tháng tròn. Tôi với nó quen nhau thường vậy thôi, chớ không thân thiết gì nhưng không biết tại sao lúc sắp chia tay như trưa nay, tôi bị xúc động mạnh. Hay là tại nó đem cho riêng tôi một rổ cá? Có lẽ nào?

Nó đi về đồn, cái dáng lặc lè chưn thấp chưn cao. Tôi mang một tâm trạng nửa buồn nửa vui hỗn độn. Út Trung nắm lấy hai vai tôi:

-- Vậy là anh em mình ngày mai qua Bidong rồi. Khoái quá!

Trung vừa nói vừa reo vui, bỗng nhiên nó bật kêu lên:

-- À, à, em hiểu ra rồi, tại sao bà Chiều Tím hạ giá hàng hóa, bán đổ bán tháo, gạo đường sữa chất cả lều không kêu người bán rẻ cho hết cũng phải đem cho, hổng lẽ hai vợ chồng khom lưng ra vác hết qua Bidong để làm gì bây giờ?

Út Trung thiệt là thông minh, có bao nhiêu đó mà tôi nghĩ không ra. Bà Chiều Tím đáng thương của tôi ơi! Ở đời có nhiều chuyện xảy ra mình không đoán trước được. Nếu biết được trước thì giàu sang mấy hồi. Đống hàng hóa đó bây giờ phải làm sao? Thôi, cái gì của Tăn Ku phải trả lại cho Tăn Ku!

Tôi ngửa cổ uống một hơi dài cạn lon đá lạnh, tìm chỗ cất cái lon xong rồi đứng tần ngần nhìn cái lều nhỏ xíu, lá cọ đã đổi sang màu vàng khô, rồi nhìn sang cái bếp, ba cục đá chụm đầu nhau đen thui màu khói than, trong đó còn một vài tàu dừa cháy dang dở... một tháng trời sống thiếu trước hụt sau nhưng rất vui vì còn có vợ con, anh em, bạn bè... và một niềm hy vọng ở ngày mai.

Trời vừa sụp tối, tôi và Duyên đã pha xong một bình trà thiệt lớn. Gói trà được thằng võ sĩ rụng răng Johny cho nhân lúc đổi hàng dùm Tuyết-Tiến. Thứ nầy khi pha phảng phất mùi trái vải lúc uống thêm đường cát trắng thơm ngon, khác hẳn các loại trà tàu. Anh chị Thuần đem qua một dĩa mứt dừa lớn. Những lát dừa được xắt mỏng ướp đường trắng bong khéo léo ngon lành. Anh chị Tư Trần Hưng Đạo có một gói kẹo đủ màu, chị Thùy Dương, Tiến, Chiêu, Dân "gì đó," Sơn, Út Trung đến với niềm vui. Có cả thằng Zăm Bri và thằng "ti đu" đến chơi từ giã. Như vậy là cả trại yên tâm dọn dẹp chuẩn bị cho đến khuya để mai lên đường, khỏi sợ bị bắt buộc "ti đu, ti đu" như mọi bận. Cái đệm ngồi được trải phẳng phiu trên bãi cát trống trước mặt lều, cây đèn dầu để ở giữa. Trời tối đen như mực, đêm nhiều gió nên ánh sáng lắt lay chỉ chực tắt. Mặt người khi mờ khi tỏ. Vì khá đông nên người người ngồi sát nhau ấm áp, thân tình, lòng đầy phấn khởi vì biết chắc ngày mai sẽ được qua Bidong. Pulau Bidong, cái tên sao mà hấp dẫn quá sức! Một tháng chờ đợi ở đảo nầy, kẹt cứng mất cả liên lạc với bên ngoài. Ở đây tuy vui nhưng hiu quạnh quá. Thời gian một tháng là quá lâu, bỏ phí thời giờ vô ích.

Thằng Zăm Bri không nói không rằng, cầm ăn hết miếng mứt dừa nầy đến miếng khác.

Tôi hỏi:

-- Ở Mã Lai có loại mứt ngọt như vầy không? Làm bằng dừa xắt mỏng ra đó...

Nó lắc đầu:

-- Không có đâu, tao ăn thấy ngon và lạ...

-- Vậy mai mốt mầy không có việc gì làm, hái dừa rồi xắt mỏng ra ngào với đường cát trắng làm thành mứt ngọt như vầy nè, ăn để nhớ tới tụi tao...

Nó cảm động:

-- Ừ ừ tao sẽ làm y như vầy... Mấy ngày có tụi bây ở đây vui quá...

Chị Thuần cười cười ngó nó nói:

-- Vui thiệt không đó, tao thấy mầy tối ngày cầm gậy đi kiếm người ta để phạt hoài.

Nó cười, ăn tiếp mứt dừa và chưa trả lời câu nói.

Chị Thuần tiếp tục:

-- Còn anh "ti đu" nầy nè, mới có bảy tám giờ bắt người ta ti đu. Ti đu cái gì được, chưa ai buồn ngủ hết...

Tư Trần Hưng Đạo xen vô:

-- Ti đu sớm quá cả tháng trời như vầy thiệt nguy hiểm, cũng may ở đảo nầy chưa thấy bà nào mang bầu... cũng nhờ trời thương!

Cả đám cười ngã nghiêng. Thằng "ti đu" ngơ ngác, không biết gì. Chị Thuần phải dịch lại cho nó nghe. Hai thằng cũng bắt cười theo.

Chị Tư vỗ vai anh Tư:

-- Có mấy cô, mấy cậu còn trẻ nè, ăn nói đàng hoàng một chút nghe. Già cả ưa nói bậy nói bạ...

Bỗng thằng Zăm Bri nói:

-- Tụi bây ở đây coi vậy chớ sướng hơn qua bên Bidong, ở bên đó chật hẹp dơ dáy thiếu thốn đủ thứ hết...

Nghe nói ai nấy chới với, ngạc nhiên đảo Dừa nầy mà sướng hơn Bidong sao?

-- Ở Bidong không có nước uống, phải tiếp tế bằng tàu, mỗi ngày được mấy lít, không có cầu vệ sinh, phải tự túc dựng lều để ở mà cũng không còn chỗ. Cái đảo nhỏ xíu thua Kapas nầy xa lắm mà chứa tới ba bốn chục ngàn người, nhiều người phải leo tuốt lên sườn núi cheo leo dựng lều... Mỗi lần đưa người qua bên đó tao ngộp thở chịu không nổi, xong việc là về liền...

Nó nói tới đâu tôi ngẩn ngơ tới đó. Bidong... Bidong, cái đảo mà tôi ước mơ, chờ đợi để được qua sao mà tệ quá vậy. Hoàn toàn không có gì hết phải tự túc tự cường. Trời, rồi phải làm sao đây.

Nước thủy triều buổi tối đã dâng cao ngập gần tới gốc dừa, bãi cát hẹp lại. Tiếng sóng ầm ầm mỗi lúc một lớn hơn. Đêm khuya hiu quạnh mịt mùng. Biển cả muôn đời sâu thẳm huyền bí mông lung. Tôi nhìn lặng lẽ gốc dừa mờ mờ nghiêng trên bãi cát, nhớ lại đêm nào mới đến nơi đây. Cả đám lội bì bõm vào bờ mình mẫy ướt mem, tụi lính Mã đốt lên một đống lửa lớn ở chỗ nầy, tất cả bu quanh như trong hang động thời tiền sử... chỉ mới có một tháng mà thấy như quá lâu. Rồi miên man nghĩ về quê nhà không biết ở bên đó bây giờ có còn ai nhớ tới mình không? Cha mẹ ra sao, bạn bè ra sao, tỉnh Bình Dương ra sao...?

Chiêu khêu ngọn đèn cho sáng rồi nói:

-- Bên đó thì cực lắm nhưng có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, có điều tra phỏng vấn để cho đi đệ tam quốc gia. Mình phải rán chịu cực trước để được sướng sau, lo gì. Người ta chịu được thì mình cũng chịu được...

Thằng Dân "gì đó" xen vô:

-- Ừa, ừa, anh Chiêu nói phải gì đó. Tới đâu thì tới, bi nhiêu thì bi, em không sợ gì đó.

Buổi tiệc tàn lúc gần nửa đêm. Trong phút chốc bốn bên lặng ngắt như tờ. Tôi nằm trong mùng nhìn xuyên qua cửa thấy bầu trời đen nhung nhấp nháy những vì sao sáng lờ mờ ở thiệt xa, thiệt xa. Phải tới bao giờ mới có trăng đây?

Buổi sáng hôm đi trời lại mưa. Trận mưa đầu tiên ở đảo Dừa, trời âm u, mưa những hột nhỏ gió thổi xiên ngang rào rào ai cũng bị ướt mem vì lều dột. Từ trên mái lều những giọt nước thi nhau nhểu xuống. Tôi và Duyên vội lấy áo mưa che trên đầu, ngồi nhìn ra biển chờ tạnh. Mặt biển sóng dâng cao, mờ ảo những sợi mưa bay ngang bay dọc. Cả một không gian đầy nước một màu xám đục. Mưa vừa dứt hột, tôi vội chạy ra nhúm lại bếp để nấu ăn sáng. Trời, một bãi tan hoang. Bếp núc lạnh tanh. Củi khô ướt nhẹp. Tôi lần mò gom lại rán mà nhúm. Củi ướt khói bốc mịt mù. Tắt rồi cháy, cháy rồi tắt. Khổ sở trăm bề...

Ăn sáng xong thì hai vợ chồng lo thu dọn đồ đạc vào xách tay, ba lô. Đồ đạc lình kình làng càng dây nhợ tứ tung. Quần áo giặt chiều qua chưa kịp khô thì bị mưa ướt sũng, thôi kệ nó dồn hết vào túi, qua tới Bidong rồi tính. Khổ nhứt là hai cái gàu mên vì dùng để nấu nướng cả tháng trời nay nên khói đóng đen thui. Phải chùi cho sạch mới để vào xách tay được. Tôi bốc một nhúm cát kỳ cọ cho trắng ra. Ở trên bãi thiên hạ cũng đang ngồi chùi nồi, chùi xoong đen nghẹt. Trời còn xám màu chì, không một tia nắng nhỏ. Những thân dừa đứng ủ rũ trong không khí sũng ướt. Mặt nước biển không trong xanh như mọi bận mà trở nên đục ngầu. Trời mùa xuân mà cứ tưởng mùa thu. Lòng tôi buồn rười rượi. Một tháng trời vui buồn ở đảo Dừa nầy, làm sao mà quên cho được, những hình ảnh thân yêu vây quanh, bám chặt trong đầu. Cái nồi đen quá chùi hoài vẫn không trắng, đang loay hoay thì có lịnh tập họp để khởi hành vì thuyền Mã Lai đã đến. Đó là ba chiếc thuyền nhỏ bề dài độ mười bốn, mười lăm mét, sơn xanh còn mới tinh, đậu song song nhau ở mé nước gần đồn lính.

Toàn trại nhốn nháo. Mọi người hối hả dọn dẹp rộn ràng. Trong phút chốc cả khu dựng lều được thu xếp chỉ còn trơ lại những khung sườn bằng cây và mái lá. Những tấm màn, nệm, dây chạc đều được thu hồi tận tình. Qua bên Bidong còn phải cần dùng lại nữa... Không còn lều của người Việt và cũng không còn lều người Hoa. Cả hai biến mất hết chỉ còn lại rừng dừa xanh mướt ngút ngàn.

Vì thuyền Mã nhỏ nên chỉ chở được đợt đầu tiên ba trăm người, những người còn lại sẽ đi ngày hôm sau. Cả đám ùa ra bờ biển, hướng về phía ghe đậu. Từ khu dựng lều tới chỗ đậu ghe nhìn thì thấy gần nhưng có đi bộ trên cát nóng thì mới biết nó xa trên nửa cây số. Trời lúc đó lại nắng gắt nên chuyện đi dép, khiêng nặng trên cát nóng không phải là dễ dàng. Bé Bi lúc đó đi chưa vững. Duyên một tay ẵm Bi một tay xách giỏ ny lông xanh đựng nồi niêu, vật dụng. Tôi phải xách hai xách tay và khiêng một cái sac marin bự muốn ẹo xương sống. Toàn là quần áo, mùng mền còn ướt nên nặng chình chịch. Nắng đổ lửa trên đầu, cát nóng như rang dưới chưn. Đôi dép lại đứt lên đứt xuống. Mỗi lần mệt quá, tôi dừng lại để thở, nhìn ra phía sau một đoàn người lôi thôi lếch thếch kéo nhau đi một đoàn dài. Mẹ con Bi mặt mày đỏ ửng, lấm tấm mồ hôi, độ chừng đi hết muốn nổi. Hồi mới xuống đảo đồ đạc cũng đâu có bao nhiêu, cũng không biết ở đâu mà bây giờ nhiều quá! Đúng rồi, thêm một số gạo đường sữa của Hồng Thập Tự Mã Lai cho...

Cạnh bên là gia đình anh Tư. Nhờ tới năm con nên mỗi đứa chia nhau khiêng vác vừa đi vừa kêu nhau ơi ới, thằng Dân "gì đó" cũng hai cái xách tay đầy nhóc... Chỉ có Chiêu là lãnh đủ. Ngoài đồ đạc của nó đựng trong xách tay khi đi, bây giờ nó lại có thêm nguyên một cái thùng cây lớn chất đủ thứ ở trại Marang cho. Đâu có ai giúp được vì người nào cũng khiêng vác đầy đầu, đầy tay. Cũng may nó rất mạnh vừa đi vừa nghỉ không biết bao nhiêu bận... Cuối cùng rồi cũng đến chỗ ghe đậu, mọi người để hành lý xuống bờ cát thở phào nhẹ nhõm. Tôi nhờ tới trước nên đi lần xuống nước để leo lên ghe.

Nước sâu cỡ ngang lưng quần, rán sức leo lên. Rải rác cũng có vài thanh niên đã ở trên boong. Chúng tôi đứng dọc theo be để chuyển người và hành lý vô trong. Tất cả mọi người đều phải lội lỏm bỏm xuống nước để được kéo lên. Cũng phải cả giờ đồng hồ, mới đầy hết được cả ba ghe. Tất cả đều ướt mem, nhờ trời nắng gắt nên chỉ trong chốc lát quần áo đều khô...

Ghe nổ máy dòn dã, từ từ tách bến. Bây giờ khoảng hai giờ trưa. Trời thật xanh và biển cũng thật xanh. Tôi đứng trên ghe nhìn lại khu dựng lều lần cuối. Nó đã quá xa không còn thấy gì nữa hết, rải rác những xác ghe hư mục, những cây dừa mọc dầy đặc như rừng, bãi cát vòng cung trắng xóa. Thôi, hết rồi, trong đời tôi chắc chỉ được sống và chứng kiến khung cảnh nên thơ đầy kỷ niệm của Pulau Kapas một lần... rồi thôi! Ghe đi ngang qua cầu tàu. Nó bằng sắt cao sừng sững, lớn quá. Mãi đến bây giờ tôi mới được thấy rõ cái cầu tàu sơn màu xanh nước biển, chiếc BL 1648 đã cặp vào đậu để qua đêm, nào ngờ bị Tăn Ku bắt ép lên đảo. Nơi đây chị Thuần ra nói chuyện với bọn lính, bị đánh té xuống biển... cũng nơi đây tôi mặc quần cụt nhảy xuống nước để lội vô bờ. Mới có một tháng mà như quá lâu...

Qua khỏi cầu tàu là nhà của chúa đảo, tên già Adidas, cất toàn bằng cây rất xinh xắn. Hoa mọc đầy trên các lối đi. Còn gì nữa... Còn gì nữa... Tôi rán hết sức để nhìn. Toàn thể Pulau Kapas chỉ còn thấy các rặng núi xanh xanh hình vòng cung mờ mờ ở xa... rồi thật xa, mất hút. Bây giờ chỉ còn lại cái đuôi nước sủi bọt trắng xóa dài ngoằn của chiếc ghe bỏ lại phía sau lái... với cả tấm lòng nhớ thương lưu luyến Kapas của riêng tôi.

Võ Kỳ Điền

PHÁO NỔ BIÊN GIỚI




Khoảng mùng sáu Tết mấy em về Bình Dương và vài gia đình về Sài Gòn ăn Tết cũng đã lục tục trở xuống. Nhà đã đông đúc, ấm cúng trở lại phảng phất đâu đây cái không khí mùa xuân nơi quê cũ. Các đòn bánh tét, đầu heo, tôm khô, củ kiệu ở nhà gởi xuống ăn hết ngay ngày hôm sau. Ăn lại các món quen thuộc gia đình nhứt là bánh tét, nhớ thương má tôi hết sức. Bà đã trên bảy mươi rồi mà vẫn còn bận bịu, lận đận vì con. Bây giờ suốt ngày chờ đợi tin con cháu chừng nào đi được, để yên tâm mà mừng. Ôi! Tình cha mẹ thương con nói sao cho hết.
Vẫn chưa có lịnh cho đi.

Bạc Liêu tháng giêng trời nắng gắt, lại ở gần biển nên nhiều gió cát. Đêm đêm giấc ngủ chập chờn, bứt rứt. Cái nóng của thời tiết cộng thêm cái nóng chờ đợi nó làm ai nấy đâm cau có, gắt gỏng. Tôi ngày nào cũng thả rểu ở chợ Bạc Liêu đứng hàng giờ dưới gốc cây sao già xem biểu diễn quảng cáo Sơn đông hoặc đi ăn hàng ở các quán nước. Gần nhà trọ có một nhà hàng cũ bị trưng thu biến thành cửa hàng ăn uống quốc doanh, bán giá chính thức. Một tô hủ tiếu giá một đồng, ba mươi xu một chả giò làm theo lối Tàu, hai mươi lăm xu một chai xá xị ướp đá lạnh. Tụi con nít trong nhà, thằng Lĩnh mập, Chí ròm, Xuân Lan, Trung, Dung là những khách hàng quen thuộc của tiệm nầy. Một ngày tụi nó chạy đi chạy về mua xá xị, nước cam con cọp không biết bao nhiêu bận. Uống hoài nên miệng đứa nào cũng đầy râu xanh, râu đỏ. Tối tối nhiều đứa đái dầm, cả sàn ướt chèm nhẹp, bị mẹ đánh khóc um sùm giữa khuya.

Tình trạng chán nản khiến cả đám như tê liệt. Riết rồi không ai buồn nói chuyện như lúc ban đầu, người nào người nấy sầu thảm như thất tình:

Gió thổi hiu hiu Bạc Liêu kia hỡi
Đoạn sầu nầy biết gởi cho ai.

Mãi như vậy cho đến một đêm kia, tôi đương chập chờn trong giấc ngủ muộn màng thì bỗng giựt mình thức giấc vì tiếng loa ở đầu đường oang oang. Bây giờ vào độ sáu giờ sáng có hơn, trời còn tối mù mù, hơi lành lạnh. Mọi người trong mùng còn đương ngủ mê man chưa ai thức. Tiếng loa phóng thanh vang dội từ xa ở phía ngã tư Quốc Tế gần bến xe đò Bạc Liêu. Ngày chưa bắt đầu nên không gian còn tĩnh mịch, tiếng nói rổn rảng của người xướng ngôn viên lặp đi lặp lại rền vang, nghe rõ mồn một:

-- Yêu cầu đồng bào đón nghe thông cáo đặc biệt của đồng chí Trường Chinh, chủ tịch Quốc Hội Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Giọng nói có vẻ gấp rút không như bình thường. Tôi ngạc nhiên. Cái gì vậy? Mới đánh tư sản năm ngoái, không lẽ năm nay đánh nữa, dân chúng miền Nam còn gì để tụi nó moi? Hay là lịnh đổi tiền? Lịnh trưng thu đất đai nhà cửa? Lịnh động viên, thi hành nghĩa vụ quân sự? Dầu gì đi nữa thì thông báo nầy cũng thiệt kỳ lạ. Mà sao người đọc lại là Trường Chinh? Tên nầy từ ngày bị thất sủng sau vụ cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc cho đến nay không thấy tăm hơi đâu hết, bữa nay lại tự nhiên xuất hiện ngang xương như vầy. Ừ, chắc có đảo chánh ở Hà Nội hay Sài Gòn, nên Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp lặn đâu mất hết trơn. Bộ hết người đọc rồi sao?

Nguồn tin sắp được loan ra khiến tôi hồi hộp hy vọng. Đã mấy năm nay tôi chờ một đổi thay. Đời sống ngày một ngột ngạt bế tắc. Đổi thay kiểu nào cũng được hết. Dầu gì đi nữa thì một cuộc đổi thay cũng cần thiết để đất nước khá hơn một chút. Kể từ năm 1975 đến nay đời sống người dân hai miền trở nên bi đát, tồi tệ. Cả nước đâm thất nghiệp, hàng triệu người bị tù đày, triệu triệu người còn lại vô công rồi nghề, đất đai bị cào xới lung tung không kế hoạch đúng đắn, rừng cây bị chặt phá hỗn loạn, mưa bão lụt lội tràn lan, máy móc xe cộ bị trưng thu để rỉ sét đầy đồng. Năm nào cũng mất mùa thất thu đói kém...

Tôi rán lắng tai. Trường Chinh bắt đầu, giọng gấp rút hốt hoảng nghiêm trọng: "...vào ngày 17 tháng 2 nầy bọn bành trướng xâm lược Trung Quốc với hơn hai mươi sư đoàn bộ binh, hàng ngàn chiến xa và trọng pháo đã ồ ạt xua quân tràn sang biên giới, đánh phá sáu tỉnh miền Bắc. Hàng ngàn cơ sở, nhà máy, trường học, nhà thương bị đốt phá, hàng chục ngàn mẫu ruộng rẫy hoa màu bị hủy hoại... Tuy nhiên quân đội nhân dân anh hùng phản công mạnh mẽ, đồng bào tại các vùng giao tranh kịp thời di tản. Các đội dân quân địa phương đã tổ chức công cuộc bố phòng chống trả. Nơi nơi đều giữ vững vị trí chiến đấu để chờ viện binh..."

À, thì ra đàn anh Trung Cộng đánh đàn em Việt Cộng. Đã từ mấy năm nay tình hình bang giao giữa hai nước càng ngày càng căng thẳng, hôm nay thực sự nổ bùng. Vậy là đồng chí Đặng Tiểu Bình lùn mà vĩ đại dạy cho đồng chí Lê Duẩn kính yêu bài học thứ nhứt. Mấy tỉnh Lào Kay, Cao Bằng, Quảng Yên, Hà Giang, Tuyên Quang bị thiệt hại nặng nề, các hầm mỏ, nhà máy, đường sá, cầu cống bị phá sập, tụi nó đang tiến quân về Hà Nội... Đã thiệt! Ngày nào tình hữu nghị Việt Trung đời đời bền vững, bây giờ thì viếng thăm nhau bằng chiến xa với trọng pháo. Những tưởng đã là đồng chí thì phải vĩnh viễn thương yêu nhau, nhè đâu theo thói thường tình, không còn yêu thương nữa thì ganh ghét căm thù, dang tay đập nhau thẳng cánh:

Bậu ra cho khỏi tay qua
Cái xương bậu nát, cái hoa bậu tàn.

Hà Nội chỉ còn xương chớ làm gì có hoa! Trung Quốc đừng tưởng lầm!

Tôi nghĩ lại tình trạng chung của cả đám và riêng tôi. Trung Cộng đánh Việt Cộng. Vậy cần gì phải ra đi? Hà Nội phải thay đổi chính sách. Nếu đất nước có được một sự đổi thay, chỉ cần một chút xíu cho dễ thở thôi, thì cũng không cần đi làm gì. Tôi nghĩ lan man ra cảnh bộ máy của đảng và nhà nước bị dẹp bỏ. Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Văn Tiến Dũng... tất cả bị bắt giam cho đi học tập dài hạn, các vị sĩ quan, công chức quốc gia mình sẽ được tự do, gia đình vợ con đoàn tụ sum vầy, dân chúng vui mừng thoát khỏi cơn ác mộng, làng xóm yên vui thanh bình... Tôi nằm nghiêng trên nền gạch gối đầu trên chiếc ba lô ka-ki xám đen mà tưởng tượng ra đủ cảnh thú vị. Dân chúng Bạc Liêu từ trong các thôn ấp xa vắng đìu hiu, sẽ túa ra đường mừng rỡ reo hò, đường phố xôn xao tấp nập. Người ta tụ năm tụ ba kể cho nhau nghe cuộc thảm bại của các đồng chí răng đen mã tấu với đầy chi tiết hấp dẫn. Rồi tới số phận những kẻ trở cờ ba mươi tháng tư, họ sẽ lúng túng như con chuột trong lồng, không biết chạy trốn nơi đâu. Dân chúng sẽ được tự do thoải mái, nhà nhà mở rộng cửa buôn bán làm ăn. Các trường học vang đầy nụ cười trẻ thơ, dưới sông ghe thuyền xuôi ngược, trên bờ xe cộ lưu thông. Lúc đó tôi dắt vợ, bồng con ra bến xe đò mua vé trở về tỉnh cũ. Tỉnh Bình Dương của tôi vẫn còn y nguyên đó. Trường Trịnh Hoài Đức ấm áp giữa các nương lúa xanh ngát nõn nà. Tôi sẽ nộp đơn xin được đi dạy lại, tiếp tục cuộc sống của đời nhà giáo, tuy nghèo và khiêm tốn nhưng yên vui. Ừ, cứ tưởng là cuộc đời mình sẽ bế tắc, ngờ đâu vẫn còn có lối thoát được. Tôi sẽ gặp lại tất cả những học trò thân yêu, những bạn bè cũ và nhứt là sống quây quần bên những người thân... Nghĩ lan man tới đây, mừng quá bèn quay qua rối rít lay vợ dậy:
-- Em có nghe gì không? Trường Chinh loan báo trên đài phát thanh kìa... Trung Cộng đánh Việt Cộng rồi... còn mấy cây số nữa tụi nó sẽ san bằng Hà Nội!

Duyên trả lời giọng ráo hoảnh, chắc nàng cũng đã lắng nghe từ lâu:
-- Có, em cũng nghe từ nãy giờ. Mà nghe rõ lắm. Quân đội Trung Cộng không tiến sâu vô trong lãnh thổ được, họ bị giữ lại ở các tỉnh biên giới. Làm gì mà tới Hà Nội mau vậy?

-- Hơi đâu mà em tin ba cái đài phát thanh láo khoét của tụi nó, với xe cộ võ khí tối tân bây giờ, đoạn đường mấy trăm cây số với mấy cây số cũng y như nhau, có khác gì đâu. Tụi Trung Cộng với một tỉ dân số dùng chiến thuật biển người, ai mà chống cự lại cho nổi. Nội cái nước nó phun nước miếng, tụi Hà Nội cũng trôi tuốt ra biển hết, tới lúc đó vợ chồng mình khỏi cần vượt biên chi cho mất công...

-- Anh thì nói cái gì nghe cũng dễ ợt. Em không nghĩ như vậy đâu. Chưa chắc gì Trung Cộng đánh thắng được Việt Cộng. Mà nếu như có thắng được, quốc tế đâu có giương mắt nhìn nó chiếm Hà Nội. Còn Nga, Anh, Mỹ, Pháp nữa chi! Họ đâu có ngồi yên ngó cảnh Trung Cộng hưởng lợi. Mà thí dụ Hà Nội thua thật sự đi nữa thì Việt Nam mình cũng không thoát được nạn Cộng sản...

Rồi nàng tiếp tục phân tách:

-- Em đồng ý phải có một cuộc đảo chánh hay cách mạng gì đó nhưng phải là người quốc gia mình lãnh đạo, điều đó mới thực sự có tự do, độc lập, thanh bình. Chớ Cộng sản nầy đảo chánh Cộng sản kia thì dầu có đổi thay cũng là đổi từ cái nhà tù nầy sang cái nhà tù khác. Điều mà mình không chấp nhận đâu phải là cá nhơn Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh hay vì Võ Nguyên Giáp... Mấy tên đó chỉ là những vai kép đóng tuồng. Không kép nầy thì bắt kép kia thế vô. Anh nào thì cũng râu rìa mặt mốc. Có cũng được mà không cũng vậy thôi. Cái chánh toàn dân không chấp nhận là chủ nghĩa Cộng sản kìa. Trung Cộng thì có khác gì Việt Cộng đâu, e rằng còn tệ hơn nữa vì tụi nó là ngoại bang.

Đương hy vọng bừng bừng, nghe vợ bình luận đâu đó có lớp có lang, tôi bèn giựt mình tỉnh mộng tiu nghỉu, lòng lạnh tanh như bị tạt một gàu nước:
-- Ờ, ờ anh nghe vội nghe vàng rồi nghĩ lung tung. Cái điệu nầy, tụi nó đánh nhau long trời lở đất là vợ chồng mình kẹt cứng. Ai ở không mà cho phép nhổ neo?

-- Thì phải chờ nữa, mình chờ đã gần hai tháng rồi, thêm bao lâu nữa cũng phải chịu chớ làm sao bây giờ!

Tôi thở dài ngao ngán:

-- Trời, sáu bảy tuần nay đồ đạc bán dần để ăn gần cạn, chờ thêm vài tháng nữa thì đám tụi mình chết khô. Chắc mấy ngàn năm sau, người ta sẽ thấy ở bờ biển Vĩnh Châu bên mấy gốc nhãn già cỗi có mấy trăm tượng đá ngóng cổ ra biển, héo mòn. Anh là tượng hóa đá đầu tiên!

Duyên lồm cồm ngồi dậy vén tóc nhìn ra ngoài:

-- Thôi mình thức dậy, trưa trờ trưa trật rồi, sửa soạn đi ăn sáng để nghe có tin tức gì mới. Em thì cho rằng biết đâu nhờ cuộc chiến nầy, người ta sợ người Hoa làm gián điệp, nội tuyến, đuổi họ đi sớm chừng nào hay chừng nấy... Không chừng mình lại có phép khởi hành trong nay mai...
Nghe nàng nói tới đó, trong đầu tôi như có một tia điện xẹt ngang, ngọn lửa hy vọng bùng cháy, tôi chợt nhớ lại câu xăm hôm Tết: "Trực đãi nhứt thinh thiên báo hiểu, tự nhiên long đái bửu châu hoàn."
-- Em nhớ câu xăm đêm giao thừa anh xin đó không? Có tiếng pháo nổ thì trời sáng liền. Bữa đó vợ chồng mình bàn là pháo người ta đốt ăn Tết, không đúng đâu, pháo đó nhỏ lắm ăn thua gì! Anh nghĩ đó là tiếng súng đại bác của tụi Trung Cộng bắn "đùng đùng" vào ải Nam Quan. Cái nầy mới đúng là "trọng pháo!"
Ở bên kia "giường ny lông," tư Trần Hưng Đạo đã thức tự nãy giờ lắng nghe vợ chồng tôi đối đáp bèn xen vô:

-- Bây giờ mà bồ còn kêu là ải Nam Quan. Người ta đã đổi tên nó từ lâu rồi! Đổi từ cái thời tình nghĩa anh em đồng chí Việt Nam - Trung Hoa còn thắm thiết đậm đà. Họ đã ví von cái mối liên hệ mật thiết giữa hai nước bền chặt như môi với răng. Hễ môi hở thì răng lạnh. Vì lẽ đó mà họ đổi tên ải Nam Quan thành ra Hữu Nghị Quan. Nào ngờ mới có vài chục năm mà răng đã cắn môi tới rướm máu. Chắc là tên Hữu Nghị phải đổi nữa để phù hợp với tình thế mới...

Rồi anh tiếp tục bình luận:

-- Chuyện chánh trị thiệt là khó hiểu dễ sợ. Vừa thương yêu thắm thiết đó, quay qua quay lại đập nhau bể đầu liền. Mà dầu trong trường hợp nào người ta giải nghĩa nghe cũng xuôi rót. Giải nghĩa xong, thấy chưa đủ còn làm thơ để ca tụng ngâm nga nữa. Trong lịch sử dân tộc chưa bao giờ thấy nền thi ca đất nước phát triển phong phú như vậy. Mỗi cán bộ là một thi sĩ. Lật tờ báo ra chỗ nào cũng toàn là thơ. Để rồi hai ông bà coi, thế nào cũng có hàng chục thi sĩ phùng mang trợn má, xăn tay áo chửi bọn bá quyền nước lớn, bọn bành trướng xâm lược...

Anh bạn nầy là tay buôn bán già đời, vậy mà chuyện chánh trị nghe cũng rành rọt dữ. Chắc là cũng học tập chính sách của Cộng sản sói đầu rồi! Tôi, mấy năm trời sống dưới chế độ bị thất nghiệp ngang xương, không biết làm gì cho hết ngày giờ, nên có dịp nghiền ngẫm khá nhiều sách báo của họ, những người chiến thắng. Điều dễ dàng nhận thấy là người Cộng sản có nhiều thói quen máy móc thành tật. Nhưng có hai thói quen lớn nhứt, từ anh lãnh đạo đầu sỏ đến anh cán bộ tép riu là tánh ưa bàn chuyện chánh trị và thói sính làm thơ. Bất cứ chuyện lớn chuyện nhỏ họ cũng liên hệ một cách tài tình đến chuyện đấu tranh chánh trị được. Cũng vậy bất cứ chuyện gì họ cũng làm thơ được. Từ chuyện anh phi hành gia được Liên Xô cho ngồi ké bay vô vũ trụ tới chuyện chị quét rác không biết đọc biết viết đắc cử dân biểu, từ chuyện đàn bà phá thai theo kế hoạch gia đình đến chuyện bác Hồ chết có con cá rô... nó khóc!
-- Anh Tư nè, theo anh vụ Trung Cộng đánh Hà Nội có ảnh hưởng gì đến chuyến đi của tụi mình không?

Tư Trần Hưng Đạo ngồi nhổm dậy bật quẹt đốt thuốc, tay mân mê cái hộp quẹt vàng lóng lánh, suy nghĩ hồi lâu:

-- Tôi cũng không biết sao mà nói. Có thể nhờ đó mà đi được, cũng có thể bị dẹp bỏ. Lịnh của mấy thằng ông nội đó ba hồi như vậy, ba hồi như kia biết đâu mà mò. Nhưng có điều tôi cho là nhờ vụ nầy, tụi nó phải quyết định lẹ. Một là cho đi liền, hai là ngưng tức khắc, chớ không thể để cù cưa cù nhầy như mấy tháng vừa qua. Ờ, ờ, tôi quên nói chuyện nầy, tối hôm qua định báo một tin mới nhưng hai ông bà lên chuồng sớm quá nên chưa nói. Chắc là sắp được đi rồi!...

Nghe anh nói tôi bèn tỉnh người liền:

-- Sắp được đi rồi hả? Có tin gì hấp dẫn vậy?

-- Ghe mình bắt đầu sắp xếp lại tổ chức. Ban đầu người được mướn lái ghe là tài công Hên. Sau đó không biết tại sao Hên đổi qua lái chiếc BL076C, thành ra chiếc của mình thiếu người. Hủ Tiếu phải về Sài Gòn mướn một anh tài công mới, mặt rỗ, đem về mấy ngày nay. Ty Công An hay cơ quan Hỏa Vận gì đó không chịu anh nầy, bắt phải chọn tài công Hốt là em vợ của Hên. Hốt bằng lòng lái chiếc của mình với điều kiện là được đem theo vợ và tiền công là hai mươi lượng vàng. Như vậy là ghe mình có hai tài công chuyên nghiệp. Chắc phải gần đi rồi nên mới chuẩn bị gấp gáp như vậy. Nhưng vấn đề lại đâm ra rắc rối là đào đâu ra số vàng để trả cho tài công Hốt?

-- Thì Hủ Tiếu phải lo chớ!

-- Hủ Tiếu nói gần hai tháng nay, chạy chọt lo lót đủ các cấp, tiền bạc hết trơn, ai muốn đi thì phải đóng thêm hai chỉ nữa, cho mỗi đầu người!
Tôi buột miệng kêu lên:

-- Trời, Hà Nội thì bị Tàu Bắc Kinh dạy cho một bài học, còn tụi mình thì bị Tàu Chợ Lớn làm tiền, chán hết sức, còn đâu nữa mà đóng, đã nghèo lại còn mắc cái eo!

Anh phà một hơi khói thiệt dài rồi nói tiếp:

-- Theo tôi đoán thì chắc là đi nội trong tuần nầy. Hôm qua đi lang thang ngoài chợ, chính mắt tôi thấy rõ ràng đám "bạn" ghe của chiếc BL1648 đi mua hàng mấy chục bao củ sắn với chanh tươi. Loại bao ny-lông xanh đựng cát. Đứa nào đứa nấy vác lình kình làng càng xuống bến. Củ sắn với chanh để lâu lắm là một tuần. Hổng lẽ nó mua trước cả tháng? Vả lại nếu không đi được tụi nó mua mấy thứ quỷ đó nhiều quá để làm chi, cho vợ con Hủ Tiếu với Nhựt Bổn ăn à?
Duyên nghe bàn tới đó xen vô:

-- Nếu ghe mình đã có lịnh cho đi, tại sao Hủ Tiếu không báo cho anh em mừng để chuẩn bị, ổng giấu cái tin đó làm gì?

-- Thiệt ra thì mình cũng đoán mà thôi, chớ chuyện thiệt hư cũng chưa biết ra sao. Việc Hủ Tiếu không báo trước ngày giờ khởi hành có nhiều cái lợi cho "giả." Một trong những cái lợi trước mắt là mỗi người phải đóng thêm hai chỉ vàng thì mới có tài công để lái ghe. Ai cũng sợ không đi được chớ gì, thôi rán đóng cho xong. Nếu mà nói ra nay mai khởi hành, ai mà thèm đóng nữa. Hai ông bà nghĩ coi có lý không?

Tôi nghe thấy đúng quá, bèn rủ anh đi ăn điểm tâm luôn:
-- Ờ, ờ, đúng vậy. Bữa nay mình ăn hủ tiếu ở quán cây dừa nghen. Ra ngoải thế nào mình cũng gặp mấy nhóm đi ghe khác, sáng nào họ cũng tụ tập bàn chuyện vang rân ngoài đó. Có tin gì lạ là biết liền!

Vừa nói tới đó, cánh cửa trước tự nhiên mở hoác, tiếng ken két rợn tai, ánh sáng ban mai rạng rỡ chói lòa vào phòng. Thằng Dân "gì đó" cao lêu khêu, vừa đẩy cửa bước vô, đứng giữa ngạch cửa, mặt mày tươi rói, cười hở chiếc răng vàng.
Tư Trần Hưng Đạo ngồi trong mùng nói chõ ra:

-- Thằng quỷ, cả đêm nay mầy ngủ ở đâu mà bây giờ mới mò về nhà?
-- Tui qua bên Hủ Tiếu chơi, nghe tụi nó nói chuyện rồi ngủ luôn ở bển gì đó!
Rồi nó nói tiếp, giọng hấp tấp nồng nhiệt:

-- Ở bên nầy, có nghe gì đó không?

Tôi mừng thầm trong bụng, chắc là có tin ghe được đi. Suốt đêm nó ở bên Hủ Tiếu mà, làm gì không biết được vài chi tiết hấp dẫn. Nếu Hủ Tiếu có kín miệng thì đám vợ con nó thế nào cũng xì ra, bèn vọt miệng hỏi:
-- Sao Dân, bộ ghe mình được giấy phép khởi hành rồi hả?
Cái thằng, thiệt tình, nó không đoái hoài một chút xíu nào hết đến nỗi bồn chồn của tôi, trả lời tỉnh rụi:

-- Đâu có, chưa đi mà! Có nghe ai nói gì tới ghe mình đâu. Tôi muốn hỏi bên nầy mấy anh có nghe radio nói vụ Trung Cộng đánh chiếm Hà Nội không?
Rồi không cần chờ ai trả lời, nó nói một hơi như liên thanh bắn, giọng Việt Nam ngọng líu lo, như thấy cuộc chiến rõ ràng xảy ra trước mắt, tay chưn ra dấu quơ lia quơ lịa như đang chỉ huy trận đánh:

-- Trời ơi, một triệu quân Tàu Cộng tràn qua biên giới, đạp nát hết gì đó! Mấy chục ngàn xe tăng với súng cà-nông bự lắm bắn "đùng đùng." Đường sá, cầu cống, nhà máy gì đó cháy tiêu. Máy bay ở phi trường vừa mới bay lên là bị hỏa tiễn bắn rớt xuống như lá rụng gì đó. Chánh phủ Hà Nội sợ quá, tính dọn vô Sài Gòn lấy dinh Độc Lập ở tạm rồi sau đó lựa người thiệt giỏi qua Bắc Kinh năn nỉ lạy lục gì đó. Mà chưa chắc Trung Cộng chịu đâu. Nước Tàu bây giờ mạnh lắm à! Nó chế được bom nguyên tử, còn Hà Nội chưa làm được cây đinh mà!

-- Thôi, thôi, thằng ông nội, đi chơi đã rồi về nhà đía cho sướng miệng. Mầy nghe mấy tin tức đó ở đâu? Sao tụi tao cũng có nghe mà đâu có y như vậy. Có mầy chỉ huy thì quân đội Trung Cộng đã ngồi chồm hổm ở lăng bác rồi!

Dân "gì đó" bị Tư Trần Hưng Đạo kê tủ đứng ngang họng bèn cụt hứng, cố vớt vát, đưa tay lên gãi đầu:

-- Tui nghe rõ ràng như vậy mà. Đài Bắc Kinh nói hồi tối qua, có Hủ Tiếu với Nhựt Bổn nghe nữa. Hổng tin qua bển hỏi lại coi, tui nói "gì đó" có đúng không?

Cái thằng ba xạo, tưởng có tin gì hấp dẫn rán lắng tai nghe, nhè đâu cái tin cũ xì! Chắc bên nhà Hủ Tiếu, thiên hạ cũng bình luận trận chiến giữa Tàu và Việt dữ lắm, nên coi nó đầy vẻ sôi nổi. Dân "gì đó" nói xong chừng như đã thỏa mãn, vén vạt mùng bước vô trong hai tay dài lêu khêu, cái lưng khòm khòm, đi được vài bước tự nhiên chậm lại:

-- Nè nè, mấy anh có biết tin chiếc 076C đã được phép gì đó chưa? Chiều qua nó đã dời đi xuống Cà Mau rồi, không còn đậu ở bến nữa!

Trời ơi, cái thằng mắc dịch, tin hấp dẫn như vậy mà nó coi như không có gì hết, nói nghe tỉnh rụi. Tôi đứng bật dậy vén mùng níu lấy tay nó, lỗ tai lùng bùng, bụng hồi hộp hết sức:

-- Sao Dân, chiếc 126C hả, được đi rồi hả? Sao im ru vậy, ở bên nầy không ai hay biết gì hết. Trời ơi, thiệt không? Có nghe chừng nào tới lượt ghe mình?

-- Không phải chiếc đó, tôi nói chiếc 076C mà. Còn hai chiếc 126C với 1648 còn ở bến y nguyên gì đó. Tui cà rà theo hỏi Hủ Tiếu, nó cứ lắc đầu nói hổng biết, hổng biết.

Tư Trần Hưng Đạo đứng kế bên hồi nào, dáng điệu hăm hở bộp chộp:

-- Chiếc 076C đi xuống Cà Mau rồi hả? Tại sao nó không đi theo ngả Gành Hào, Hộ Phòng? Mầy nói thiệt không đó, tại sao phải xuống Cà Mau kỳ cục vậy?
Vừa hỏi thằng nhỏ tấp tới, anh quay qua rủ tôi:

-- Thôi tụi mình rửa mày rửa mặt lẹ lên, đi thẳng ra bến, chun xuống ghe là biết liền. Để ý coi tụi nó chuẩn bị, sửa soạn dầu mỡ, gạo muối, khô mắm...
Đầy nhà vang rân cái điệp khúc "chiếc 076C đã đi rồi, chiếc 076C đã đi rồi." Cái tin nhỏ xíu vậy mà có hiệu quả ghê gớm. Cả bọn đương héo xào ủ rũ như đám rau bị hạn gặp được trận mưa rào, vụt tỉnh dậy hớn hở xôn xao. Nguồn tin được loan truyền từ miệng người nầy sang người kia nhanh như điện xẹt. Căn nhà như tiếp được luồng sinh khí mới bừng bừng sức sống, đám trẻ nít rộn ràng ríu rít, đám người lớn xôn xao tưng bừng.

Cà Mau, cái tỉnh cuối cùng của đất nước, tôi chưa hề đặt chân tới lần nào, bây giờ trở nên quan trọng và hấp dẫn. Tôi tưởng tượng ra một mỏm đất có hình nhọn nhọn cong cong như mỏ chim ó, bùn lầy sình đất đen thui, cây bần, cây đước, cây vẹt, cây tràm với các rễ ló cao lên khỏi mặt nước như hàng triệu triệu cây chông nhọn, trong đó có đầy cá thòi lòi với ba khía bò lổm ngổm. Mùi hương tràm thoang thoảng lẫn mùi bùn sình hôi hám, mùi nước phù sa đục ngầu tanh tưởi, khiến tôi ngây ngất. Bạc Liêu tự nhiên mờ dần trong trí nhớ:

Chờ em anh hết sức chờ
Chờ cho ến xại lên bờ khùi huôi.

Võ Kỳ Điền

Monday, December 1, 2008

VÀI NHẬN XÉT THẾ GIỚI VĂN CHƯƠNG HỒ TRƯỜNG AN




... Tôi là một người đầy ham muốn và khá tò mò, và tin rằng nhiều độc giả cũng có tánh nầy, hể đọc tác phẩm nào mình yêu thích thì bất cứ điều gì liên quan tới tác giả cũng muốn biết hết, mà phải biết cho thật rõ mới chịu (cũng như khán thính giả tò mò muốn biết đời tư của các tài tử, cải lương, điện ảnh Holywood, phim bộ Hồng Kông, cầu thủ hockey hay đá banh vậy). Nhớ lại những năm về trước, có lần tôi viết thơ cho Hồ Trường An (HTA) để điều tra cho kỹ -chơi với bạn lâu lắm rồi, hình dáng của bạn ra sao tôi không hình dung ra được, mấy hình đăng trên sách báo, cái thì mập, cái thì ốm, mắt mũi không rõ nét, khi nào rảnh làm ơn gởi cho vài tấm chụp thiệt đàng hoàng, để coi dung nhan mùa hạ (hay thu?) của bạn hiền ra sao.
Sau đó tôi liền nhận được ảnh của HTA chụp chung với nhiều bạn bên Tây, trong đó chỉ biết có chị Nguyễn Thị Vinh. Trong hình, còn thấy ba bốn đấng nam nhi trạc tuổi trung niên, ông nào cũng giống nhau vì đen thui, cũng bụng bự bự, không đoán được HTA đứng ở giữa hay ở bìa. Thôi đành ngắm cô trẻ trẻ đứng gần chị Vinh vì cô nầy ốm ốm, cao cao, thon thon và đẹp ơi là đẹp, trong bụng vẫn còn thắc mắc không biết HTA là ông đen nào trong hình, dĩ nhiên cũng tò mò muốn biết cô trẻ đẹp đó (sau nầy biết tên là Mỹ Nương) quen với bạn mình ở mức độ nào, có thân thiết nhau không, biết đâu chừng ...

*Nhớ có lần học giả Lâm Ngữ Đường đã nói "-một người biết đọc sách xét kỹ tác giả từ trong ra tới ngoài như người ăn mày lật áo ra để tìm rận. Một số tác giả luôn luôn kích thích độc giả như một chiếc áo đầy rận của người ăn mày. Ngứa ngáy là một cái thú trên đời." Đó là ông nói về điểm thích thú của người đọc. Tôi cũng là một trong hằng ngàn độc giả có được cái đam mê đọc sách đồng thời là một người bạn bút mực khá gần gũi của HTA trong giai đọan phôi thai của nền văn học hải ngoại vào thập niên 80, nên chuyện tìm hiểu HTA là một ngứa ngáy đầy thú vị.

*Tôi sở dĩ nói lòng vòng như vậy vì tôi mê văn HTA, muốn biết rõ con người HTA và cố gắng tìm tòi nét đặc biệt nào trong bút pháp mà anh đã tạo nên tên tuổi và tìm được một chỗ đứng vững vàng trong văn đàn hải ngoại nầy. Nhìn cái cây xanh trĩu lá hoa, ta phải thấy được bên dưới lớp vỏ nâu sần sùi, luân lưu đầy mạch nhựa non tươi mát. Cây hết nhựa hay không còn chút nhựa nào thì chỉ còn dành cho lò sưởi... Cũng vậy chất liệu quí báu để nuôi cây tươi tốt là nhựa non bổ dưỡng, còn chất liệu để nuôi một tác phẩm nghệ thuật là bút pháp và khí hậu ấm áp của nó, cũng như máu nóng đối với cơ thể. Máu là điều kiện ắt có nhưng chưa đủ, muốn đủ là phải nóng, điều nầy cần thiết hơn. Cũng vậy muốn trở thành nhà văn phải chú ý đến trước hết là bút pháp và khí hậu của tác phẩm mình tạo ra, tức là cách viết đặc biệt của riêng mình.
Với một nhà văn, không có lời nhận xét nào thê thảm hơn khi bị phê bình là cách viết nầy giống giống nhà văn nào đó. Viết văn mà giống người khác là mới tập viết, còn ăn đậu ở nhờ nhà người chớ mình chưa có nhà riêng. Phải cất nhà riêng cho mình, dù nhà lá hay biệt thự, phải do mình tạo ra. Nhà không có nóc, phải nương tựa vách nhà hàng xóm thì chỉ là cái chòi...

*Trước hết tôi muốn nói đến khí hậu ấm lạnh của bài văn, đó là cái vốn căn bản để làm văn chương nghệ thuật. Muốn trở thành một tác phẩm, bài văn phải ấm áp, đầy nhiệt tình. Dù kỹ thuật có hay, cách viết có khéo, tư tưởng có cao, chữ dùng có đạt mà khí hậu lạnh tanh thì xấp giấy có chữ viết tèm lem đó phải chịu nằm ở xó kẹt nhà kho chớ không phải được đặt trên kệ sách quí.

*Nhưng làm sao để tạo sinh khí cho câu văn? Cũng như Chúa Trời tạo ra loài người, Chúa phải chịu khó thổi hơi nóng cho người đầu tiên được nặn bằng đất sét. Nếu không truyền cho một ít hơi nóng tự bản thân Chúa thì con người chỉ là một cục đất sét có mặt mũi tay chưn nhưng không nhúc nhích. Có nhiều cách tạo hơi nóng cho tác phẩm, có tác giả dùng đối thoại dí dỏm, hoặc đốp chát tưng bừng gây cho người đọc cảm giác tươi vui, có tác giả quan sát tỉ mỉ, phân tách chi ly khiến độc giả ngạc nhiên nhảy dựng lên, có tác giả kiêu kỳ, khinh bạc ngông nghênh, có tác giả thiệt thà, chất phác, bình dị, có tác giả ba trợn, ngang tàng, mỗi người là một sắc thái riêng tư, không ai giống ai. Nhà văn là thượng đế đầy quyền uy với nhiều chất liệu sáng tạo, phải biết tận dụng cách thức riêng để tạo sinh khí cho tác phẩm mình.

*Riêng HTA, tôi vẫn thường thấy anh tạo hơi nóng cho tác phẩm, là trong khi sáng tác, coi độc giả như người bạn thân tình để chia xẻ những buồn vui, cùng nhau tâm sự, rồi lần lần đi đến nhiệt tình. Thế giới văn chương HTA không phải là thế giới nghiêm trang của nhà thờ hay chùa nơi đó tác giả khoát bộ mặt ông cha hay thầy tu để giảng đạo mong cứu vớt kẻ tội lỗi hoặc khổ đau; cũng không phải là trường học để thầy giáo phô trương kiến thức uyên bác, giảng bài dạy dỗ cho học trò là độc giả nghe; cũng không phải là chiến trường sắt máu hay chiếu rượu ồn ào để cho tác giả múa may tung hoành, phô diễn những âm mưu lừa lọc, xão trá, hoặc ca tụng thù tạc; cũng không phải là chợ búa mua danh bán lợi để tác giả và độc giả chia nhau từng mớ chữ nghiã, giành giựt chút danh hão; cũng không phải là thế giới của người thành thị giả dạng quê mùa hoặc ngược lại...

*Thế giới văn chương của HTA là thế giới của những người bạn thân tình, cùng chung những đau khổ và hạnh phúc, cùng chung những ước mơ và hy vọng, cùng chung những an ủi và chia xẻ. Anh đã viết ra như vậy và đã sống thực như vậy. Độc giả từng đọc truyện của HTA, bạn bè từng giao tiếp với An, thân cũng vậy, quen sơ cũng vậy, An đều coi như bạn thâm giao, đem hết trái tim cùng ruột gan ra mà cùng nhau chia xẻ buồn vui, không mảy may dè dặt, thủ thế ...

*Ở tác phẩm HTA, bất cứ cuốn nào, bài nào, thì độc giả cũng thấy ở mỗi chữ, mỗi câu, mỗi thiên, mỗi tiết, ngay cả ở cách đặt tựa của những truyện ngắn, truyện dài, là những lời thủ thỉ tâm tình của tác giả và độc giả. Như có lần trong một bài tạp ghi viết về những sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Montréal, bạn đọc đã ngạc nhiên khi thấy cái tựa đề lạ lùng "Montréal, một thành phố hãy còn trong mường tượng" Chỉ với mấy chữ ngắn gọn, vậy mà HTA nói được biết bao nhiêu điều, như muốn kể trước cho bạn đọc nghe anh đang mơ mộng về một phương trời Montréal xa thẳm, ở đó đang có những người bạn văn, đang chơi trò chơi chữ nghiã, có lẽ rất tưng bừng, phải chi một ngày nào mình đến đó...

*HTA đã viết và độc giả theo dõi ‘Chuyện miệt vườn’, ‘Chuyện quê Nam’, ‘Lúa tiêu ruộng biền’ ‘Đêm chong đèn’’Tạp ghi xanh’ ‘Lá thư mùa thu’ ‘Trên dải tân bồi’.. nói chung những tác phẩm của HTA toàn là những câu chuyện riêng tư vụn vặt của một người bạn là tác giả rù rì rủ rĩ, kể lễ cho bạn hiền, là độc giả nghe, y như hai người bạn thân đang nói chuyện với nhau, ngồi xổm ở quán cóc hay vĩa hè, bên một liếp rẩy hay trên một bờ mương rong rêu, bên chiếc cà ràng đất đầy tro bụi, tất cả xuất hiện trong một không khí đầy ấm áp và nhiệt tình.

Họ nói với nhau cái gì vậy? Có gì lớn lao đâu, toàn là chuyện cà kê dê ngỗng, chuyện con mẹ nầy thương thằng cha kia, chuyện bà hàng xóm kia đánh ghen cô láng giềng nọ, chuyện bếp núc làm tôm làm cá, cách kho thịt làm sao cho ngon, cách phi hành sao cho thơm, về quần áo thì thứ lãnh nào đẹp, loại xuyến nào bền, may mặc đường kim mũi chỉ sao cho khéo, cách trang điểm của mấy cô mấy bà, với các lớp kem lót mặt hiệu nào, làm sao cho da được mịn,... Những người bạn độc giả nầy cũng dễ tánh, ai nấy đều xuề xoà, khi thì lắng nghe kỹ lưỡng, khi thì lim dim mắt nhắm mắt mở, nhiều khi giựt mình ngơ ngác hỏi, bạn kể tới đâu rồi, hình như vụ đánh ghen đó, vụ kho cá bóng kèo kia, rồi vụ nấu canh rau đắng, rau ngổ, rau tập tàng, vụ ma nhát ở Đồng Chó Ngáp... lần trước đã kể rồi mà.

*Tác giả cũng với nụ cười hịch hạc dễ dãi, có gì đâu mà bạn phải bận tâm, cứ yên lòng mà nghe kể tiếp. Hình như đức Phật có lần nói, chớ cho bất cứ chuyện gì là quan trọng, đừng để tâm vướng mắc, cứ buông bỏ hết đi, thì sẽ đạt được hạnh phúc ngay trong cõi đời nầy. Đời tự nó đã khổ rồi, tại sao lại phải dằn vặt khổ thêm. Văn chương phải làm cho đời thêm tươi mát đẹp đẽ hơn, đừng nhắc chi chuyện buồn rầu...mệt lắm.

*Thử coi cho kỹ trong đống tác phẩm hàng ngàn quyển đã in ra, nhà văn nhà báo nào cũng nói thương yêu quí mến độc giả mà ai lo lắng chăm sóc độc giả kỹ lưỡng bằng HTA không? Tại sao bằng chữ nghiã có sẵn, mình không dọn cho độc giả những mâm thịt cá ê hề, mời họ ăn cho ngon, thêu may quần áo toàn bằng lụa là để họ mặc cho đẹp, rồi chịu khó dẫn cả nhà đi coi hát bóng, coi cải lương, lắng nghe họ cãi nhau cho đã đời rồi nhìn họ yêu nhau thắm thiết... HTA cắt nghiã rõ cho bạn đọc nghiã đen của chữ tiểu thuyết, tiểu là nhỏ mà thuyết là lời nói hay câu chuyện. Đó là viết những chuyện vụn vặt để thể hiện được cái quan trọng là cõi lòng tốt đẹp, trong sáng, dịu dàng, cái tình cảm nhân hậu của con người đối với con người thương mến nhau. HTA đã gởi gấm và đã được độc giả chia xẻ trong niềm tương thân tương ái, ấm áp thân tình.

*Như đã trình bày, trong văn giới có tác giả thâm trầm mà khinh bạc, người sắc sảo đến độ chi ly, người thì phù hoa óng chuốt, có người ngông nghênh bất cần đời, người mộc mạc chất phác, người thì thô kệch...tất cả đều phải thể hiện nét sắc sảo, ly kỳ của ngòi bút mong đạt tới nét độc đáo tài hoa của mình, điều đó khó mà dễ. Nhưng với cách viết giản dị tươi sáng, mà tạo được sự ấm áp thân tình hầu như hiếm lắm và ít người đạt đến được như HTA, tưởng dễ mà thật khó. Nhà học giả nổi tiếng của Trung Hoa, Lâm Ngữ Đường có lần đã nói: ‘cá tươi không cần gia vị vẫn nấu được món ăn ngon, còn cá ươn thì phải thêm mắm muối càng nhiều càng tốt....’

*Coi độc giả như bạn thân, HTA đã làm được nhưng chưa đủ, các tác giả nữ công gia chánh, nhà báo gỡ rối tơ lòng, trả lời thơ tín, rõ ràng họ đâu phải là nhà văn. Cũng vậy những vị học lực thâm sâu, kiến thức quảng bác, bằng cấp cao tột, cũng không phải là nhà văn, họ chỉ là những học giả nổi tiếng. Muốn là nhà văn, như có lần Mai Thảo đã nói, phải là người giàu có, tha hồ tiêu xài chữ nghiã. Mai Thảo nói gì mà rắc rối khó hiểu quá vậy?
Nếu chịu khó suy nghĩ thì đúng thiệt, ông ta nói là làm. Nhà văn Mai Thảo vốn là tay ăn hoang tiêu rộng, phung phí chữ nghiã vì quá sức giàu có. Quả thật, ngôn ngữ là để diễn đạt tư tưởng, tình cảm. Vốn liếng của nhà văn là ngôn ngữ, nếu ngôn ngữ nghèo nàn, khô cạn, héo khô, ngọng nghịu...thì làm sao mà trao đổi, làm sao mà bàn bạc, diễn đạt. Giàu chữ nghiã có nhiều cách hiểu. Muốn diễn tả một ý niệm, nhà văn có thể dùng rất nhiều từ để diễn đạt, dùng nhiều cụm từ phụ thuộc như tĩnh từ (adjectif), trạng từ (adverbe) làm đậm đà thêm ý muốn nói. Đó là cách thường dùng của các nhà văn Tây phương. Câu văn nhờ đó mà trở nên đẹp đẽ, mỹ miều, tinh tế và nhứt là diễn đạt được tới cùng tận chỗ chi ly, sâu kín nhứt của lòng người. Cách ngược lại là cũng có thể dùng vài từ mà diễn đạt được nhiều ý, để độc giả tuỳ trình độ học thức và thưởng ngoạn, tự nghiền ngẫm thấm thiá cái thú vị riêng tư (như cách của các nhà văn Trung Hoa).

*HTA đã áp dụng được cả hai cách nhuần nhuyễn. Tuy anh học khoa học (ngành Dược) nhưng khả năng hiểu biết và kiến thức văn chương Việt Nam và thế giới khá cao, anh đọc rất nhiều sách và trí nhớ phải nói là như máy điện toán. Trong những thơ từ qua lại, nhiều khi tôi phải sững sờ tự hỏi làm sao HTA nhớ nổi các mẫu chuyện vụn vặt xảy ra ở một góc phố nào đó, vào một thời điểm xa lơ xa lắc của quá khứ. Vậy mà HTA đã nhớ rõ mồn một, kể lại từng chi tiết, tên tuổi của từng nhân vật tỉ mĩ có ngọn có ngành không sai sót... Chúng ta thử đọc vài đoạn hầu coi mức giàu có trong kho tàng ngôn ngữ miêu tả của anh:

"-răng năm nào của tôi tuy hô tuy vẫu nhưng vẫn xước mía thật tài tình, nhai ổi ngau ngáu. Mắt tôi tuy hí năm nào hễ khi nhắm mắt ngủ một giấc thoải mái trong veo. Giờ đây bốn chiếc răng giả xinh như hạt lựu, ngời sắc men mịn bóng, dẫu tôi có giận ai, chửi ai thì dám chửi chớ không dám cắn. Mắt tôi thụt sâu để gương mặt tôi sáng hơn, nhưng đôi mắt ấy biết bao đêm mở dài tráu tráu trong bóng đêm vì mất ngủ, và hễ khi tôi nuốt thuốc ngủ vào, đôi mắt vừa nhắm là thấy ác mộng, dị mộng nườm nượp kéo về. Kiệt (Kiệt Tấn ) nhắc lại đôi mắt cũ, hàm răng cũ của tôi, nhưng làm sao hắn trả lại cho tôi hai thứ quí báu đó để tôi nhai xương gà, cạp bắp, gặm giò heo, nhai khô mực, để đêm đêm nhắm mắt là ngủ một giấc êm suông sẻ, óng chuốt."

Hoặc trong Chân Trời Lam Ngọc:
"-Hôm đó chị mặc chiếc áo dài màu rêu sẩm nổi hoa xám bạc. Màu sắc rất chìm, rất nguội nhưng rất trang nhã. Đặc biệt nhất là chiếc khăn choàng hiệu Pierre Cardin màu đen nổi vạch màu hoàng kim, màu xanh lân tinh và màu đỏ yên chi làm cho màu áo khiêm tốn và màu son phấn tranh điểm kín đáo của chị nổi bật xôn xao hẳn lên. Tôi có bảo một anh bạn: bà Diệu Tâm hôm nay chơi trội màu sắc quá."

*Qua hai đoạn ngắn trên chúng ta thấy tác giả dùng nhiều danh từ, nhiều tĩnh từ khiến phong cảnh, nhân vật đầy màu sắc lung linh và hình ảnh tràn đầy. HTA thường viết như vậy và lối viết đó trở thành thói quen. Anh phóng bút thoải mái, nghĩ sao viết vậy không sửa đổi, trau chuốt gạn lọc, nhờ vậy nên văn rất tự nhiên. Độc giả chỉ cần đọc vài câu và biết ngay tác giả là ai, không hề lẫn lộn hoặc sai lầm qua người khác. Đám đông quần chúng dễ đón nhận và cảm thấy gần gũi vì chuyện xảy ra y hệt cuộc sống bình dị hằng ngày.

*Nhưng đôi khi HTA cũng dùng cách thứ hai, "đạt ý ở ngoài lời " của Trung Hoa. Đó là khi anh cố ý làm văn, khi viết thì câu văn ngắn gọn, chữ nghiã đơn giản, không nhiều tiếng phụ thuộc rườm rà, nhưng gây nhiều hình ảnh. Hình ảnh được tác giả cố ý gợi ra để độc giả tưởng tượng thêm. Một lần trong Lá Thư Mùa Thu (11.1984) HTA đã than thở:
-"Giờ, Troyes đối với tôi là đất trích. Nhưng đất trích nầy đẹp quá, không có "lau vàng trúc võ nẫy mầm quanh hiên" như cảnh đất trích của nhà thơ Bạch Cư Dị. Nhưng tôi biết, bắt đầu giữa thu, cây sẽ trụi hết lá, cảnh vật sẽ buồn thảm, bầu trời thường thấp xuống và phủ mây màu chì. Có thể là vào đầu thu ở đây đẹp. Lá vàng như còn rạo rực ánh rạng rỡ. Vào buổi sáng hay buổi chiều, sương lam mỏng vương vất từ chòm cây khóm lá. Vào chơi trong rừng thu như vào cảnh mộng, đến khi trở ra xe thì áo măng tô đã ẩm nước" .

*Thử phân tích đoạn văn ngắn nầy thì thấy ngay văn tài của HTA. Chúng ta hay bất cứ ai cũng có thể tả cảnh mùa thu có có lá vàng, có mây đen màu chì, có sương lam mỏng, có khí trời ẩm đụt, nhưng với tất cả đường nét đó không nói lên được điều gì, đó là những đường nét chết, miêu tả một cảnh vật không sinh khí... Chỉ thêm vào mấy chữ cuối dòng, HTA đã làm cho mọi sự sống động. Tác giả không chỉ vẽ hình ảnh một người lạc loài bơ vơ nơi đất khách, sống hiu quạnh thê lương qua thân xác bên ngoài mà còn vẽ được trong cõi lòng cảm nghĩ nữa. Con người lưu lạc đó cũng biết tận hưởng cảnh đẹp như mộng đang có của phương trời Tây. Cái không khí mùa thu đất Pháp bàng bạc qua văn của Anatole France với hình ảnh chú bé lưng mang cặp sách, nhảy chân sáo tung tăng buổi tựu trường đầu thu ngang qua công viên Luxembourg, lãng đãng với không khí mùa thu Tô Châu, Hàng Châu của Trung Hoa ngàn năm trước. Thi hào Tô Đông Pha đời Tống đã viết lời kết trong Tiền Xích Bích Phú...." khi đồ nhắm hoa quả đã hết, mâm bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu mà ngủ ở trong thuyền, không biết vầng đông đã sáng bạch tự bao giờ. (hào hạch ký tận, bôi bàng lang tạ, tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch)

*Người xưa say mèm giựt mình thức giấc, bất giác thấy vầng đông đã sáng bạch. Người nay tuy đang dạo chơi rừng thu - khi trở ra xe thì áo măng tô đã ẩm nước. Hai trạng thái thức ngủ tuy khác mà cảm giác như một. Độc giả cũng bất giác, ngạc nhiên sững sờ thú vị. Viết ngắn gọn được như vậy là tuyệt bút. Đâu cần phải có câu chuyện ly kỳ, tâm sự éo le, tư tưởng siêu tuyệt,... mới là văn chương.

*Còn bao nhiêu điều chưa khám phá trong thế giới văn chương HTA? Tôi tin là nhiều lắm nhưng do tình cờ đọc lại xấp thư cũ bạn gởi cho, đâm giựt mình. Một ngày cuối thu năm 1993 An đã viết ‘-viết về HTA, xin bạn đừng nên, việc gì phải quậy lên cho độc giả chú ý. Tôi khác mụ X... ở chỗ đó, không quá khiêm tốn để tự hạ mình, không quá hách xì xằng, không khua động... Cố viết sao cho anh em bằng hữu vui, rồi mình cũng vui theo là được. Mà Điền tin đi, hễ mình vui là độc giả vui lây...’

HTA đã viết rành rành như vậy mà thiệt tình, tuy tay tôi không cầm bầu rượu nắm nem mà cũng vì mãng vui nên đành quên mất lời anh dặn dò. Trong mớ trí nhớ hổn độn mù mờ, chợt nhớ hai câu thơ của một người bạn gái văn sĩ :

Người đã nói rồi hay chưa nói,
Người đã nói rồi hay chưa nói ra
...

Quả tình mấy ông, mấy bà làm cái nghề thi sĩ, văn sĩ thiệt rắc rối, nói tới nói lui, vòng qua vòng lại không ai hiểu gì hết trơn. Thực sự đến giờ phút nầy, cũng không biết tôi đã viết được chút ít gì về văn tài HTA, người bạn văn sĩ ở bên Tây của tôi chưa. Thôi đành kể như là có nói mà chưa hết ý...

VÕ KỲ ĐIỀN
(Văn Học, tháng 5 1999).

Wednesday, November 26, 2008

CÀ MAU LY RƯỢU GIÃ TỪ




Thế rồi ngày chờ đợi cũng đã đến. Sau bữa cơm, mọi người đang lim dim trong giấc ngủ trưa thì Hủ Tiếu khệ nệ vác cái bụng nước lèo, khệnh khạng đi vào nhà mặt hí hửng báo tin lịnh trung ương đã chánh thức cho phép các ghe của tỉnh Minh Hải khởi hành. Hắn nói:

-- Ngày mai, lúc sáu giờ sáng tụi mình đi xuống Cà Mau bằng xe đò, rồi từ Cà Mau mới đi ghe ra biển. Nhớ nghe, đi xuống đó tay không, không được cầm theo gì hết. Hành lý có xe chở đi trước... nhớ sơn tên họ rõ ràng để khỏi lộn.
Như một phát pháo lịnh vừa được châm ngòi, cả nhà bừng bừng vui ngày hội lớn. Một nỗi mừng vụt đến, tôi ngây ngất bàng hoàng. Ghe đã được đi! Ghe đã được đi! Công trình của gần hai tháng trời héo hắt đợi chờ. Tôi nhìn chỗ nào cũng thấy đáng yêu hết sức. Nắng hừng hực giữa trưa, nắng long lanh ngoài ngõ, nắng xôn xao trên những lá rau muống bên kia đường, nắng chói lòa niềm vui. Mọi người lăng xăng dọn dẹp, thu xếp, chuẩn bị. Tư Trần Hưng Đạo đi chợ mua sơn để ghi tên họ trên các bao hành lý, đồ đạc anh đem theo nhiều quá, gần tới cả chục cái xách tay. Anh ngồi trong góc nhà, cầm cây cọ nhỏ chấm vô sơn vàng, cẩn thận viết từng chữ cái.

Tôi nói với anh:

-- Anh mua hộp sơn lớn quá, viết có mấy cái xách tay làm sao cho hết!
-- Tiệm không còn thứ nhỏ, thôi kệ, miễn có mà viết. Xong rồi, anh em lấy mà dùng khỏi mắc công mua nữa.

Tôi soạn lại xách tay, sắp xếp lại quần áo, cái để mặc đi đường, cái chở theo bằng xe hơi, cùng các đồ dùng cần thiết.

Duyên kế bên cũng rộn ràng:

-- Mình phải mua thêm bình nhựa đựng nước đem theo để uống đi đường, cái bình một lít của Bi nhỏ quá không đủ đâu, em cũng phải mua thêm một cái nồi để nấu nướng...

Nghe vợ nhắc tới đó, tôi bỗng nghĩ ra vấn đề than củi:
-- Chắc phải mua thêm cây búa để đốn củi, không có nó thì lấy gì chặt cây mà chụm?

Út Trung xen vô bàn:
-- Thế nào ghe cũng tấp vào một bờ biển của Thái Lan hay Mã Lai, gặp nhà cửa của người ta mình xin vô ở đỡ nhưng cả ghe mấy trăm người làm sao ở cho đủ, chắc phải giăng lều ở ngoài trời. Vậy nên mua thêm vài cuồn dây nhợ, vải bố căng lều.

Tư Trần Hưng Đạo tiếp:

-- Đã mua thì mua luôn cho đủ, mua nhiều nhiều lưỡi câu với dây ny lông để rủi có lọt vô đảo hoang thì cũng câu được cá mà ăn, mua luôn phao để có chìm ghe thì... lội!...

Duyên đi chợ mua về hai bình đựng nước cỡ năm lít. Có mua thêm cốm dẹp, làm thêm thịt cá chà bong. Đường chanh thì đã có làm sẵn ở nhà từ trước. Thấy nàng sửa soạn thức ăn đem theo, trong đó có một kí sữa bột, cả đám đều cười cho là chở củi về rừng vì ở bên đó thiếu gì sữa. Lịnh Công an ban ra là các ghe đậu ở Bạc Liêu sẽ đi xuống Cà Mau chở trước theo những kiện hành lý cồng kềnh. Hành khách đi tay không theo sau bằng xe đò. Vì Việt Cộng nói nên không ai tin, sợ bị gạt. Nếu nó lấy hết các hành lý, không chở theo ghe thì lấy gì mà mặc. Vả lại dầu nhiều hay ít ai cũng có dấu vàng bạc trong các gói xách, trong áo quần để phòng khi cần thì dùng đến, bây giờ phải làm sao?
Đứng nhìn qua bên kia đường tôi thấy hành khách của chiếc 0126C ra đi, ăn mặc dầy cộm như phi hành gia. Mỗi người bận bốn năm cái áo, ba bốn cái quần rồi thêm vào đó áo mưa, áo lạnh, đầu đội nón, tay che dù, cổ quấn khăn, đủ mọi thứ trùm lên đi hết muốn nổi. Trời Bạc Liêu, tháng giêng nắng như đổ lửa mà phải đi vào buổi trưa đứng bóng như vầy, thiệt là khổ hết chỗ nói. Để tránh dân thị xã dòm ngó, từ nhà ra đi từng người một, đến nơi hẹn vắng vẻ có xe đậu sẵn để chở đi Cà Mau.

Cũng may chúng tôi được đi vào lúc sáng, ăn mặc cũng theo kiểu trùm mền nầy nhưng không nóng nực lắm. Đến Cà Mau loay hoay cũng đã trưa. Nghỉ ngơi, ăn uống dọn dẹp chỗ ở tạm thì cũng hết ngày hết giờ. Cả bọn tắm rửa xong thì trời cũng đã về chiều. Tôi chọn một bộ quần áo mới để thay đổi cho tươm tất một chút. Cả ngày đi xe từ Bạc Liêu xuống đây, đầu cổ mình mẩy bụi bặm dơ dáy lôi thôi quá. Dầu gì đi nữa, đây cũng là lần đầu tiên tôi đặt chưn lên cái đất Cà Mau, bê bối lượm thượm thì thiệt là không nên. Nắng đã tắt từ nãy giờ, trời chiều im mát. Đèn đường đã cháy sáng. Hoàng hôn nơi tỉnh lỵ êm ả, trong lành. Mọi hoạt động náo nhiệt ban ngày đã ngừng hẳn, nhường chỗ cho sự nghỉ ngơi, thong thả. Người đi thưa thớt, thỉnh thoảng có vài chiếc xe lôi chầm chậm chạy ngang. Nhìn qua Duyên, nàng cũng mặc cái áo mới có nổi bông xanh, quần dài đen óng ả. Bi áo trắng, quần ngắn có dây tréo sọc đen, hai con mắt láo liêng nhìn mọi nơi ngơ ngác như con vịt nhỏ.

Nơi chúng tôi tạm trú là một ngôi chùa lớn của người Tàu. Giờ nầy trước cổng chánh đã có nhiều gian hàng bán chè, bán cháo đông đầy. Tôi lững thững chậm bước, đứng đợi cả gia đình Tư Trần Hưng Đạo để đi chung cho vui. Ở góc phố nầy tôi có thể nhìn thấy xa xa chợ Cà Mau qua dãy lầu hai từng xưa cũ. Có nhiều căn nhà còn đương cất nửa chừng dở dang. Nhìn trở vào trong tôi quan sát toàn thể ngôi chùa. Đó là một cơ sở nguy nga đồ sộ, kiến trúc bằng bê tông cốt sắt. Nó nằm trên con đường chánh của tỉnh lỵ. Như tất cả chùa miếu của người Trung Hoa, nó được sơn phết rực rỡ bằng toàn một màu đỏ. Mái ngói màu gạch cua cong vút, gạch tường đỏ bầm, nền gạch bông đỏ bóng, từng hàng cột đỏ tươi, mấy hoành phi câu đối cũng đỏ. Chỉ có hàng chữ to nằm vắt ngang chánh điện là sơn đen tuyền, chữ khắc lõm sâu, cứng cáp "Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm."
Vậy là tôi hiểu lầm rồi. Đây không phải là cái chùa thờ Phật mà là hội quán của những người cư sĩ Trung Hoa. Cách đó chừng một cây số mới là một cái miếu lớn thờ Quan Thánh Đế Quân. Xung quanh cây cối vườn tược xanh tươi, thạnh mậu.
Trong hội quán có văn phòng làm việc của ban quản trị, có phòng ốc trú ngụ, cờ xí trống chiên để dọc theo tường la liệt. Đặc biệt có chỗ tắm rửa, vệ sinh thiệt rộng rãi, sạch sẽ. Tuy nhiên vì đám khách trọ hôm nay quá đặc biệt, họ đông gần trên năm trăm người, khách của hai ghe 1648 và 126C cùng ở chung, nên việc vệ sinh lúc nào cũng phải sắp hàng chờ đợi. Nhưng điều đó đâu có quan trọng gì. Ai cũng vui vẻ, thoải mái vì chỉ ở tạm ngày nay thôi, mai nầy lên ghe rồi, dầu cực khổ cách mấy cũng vui.

Tư Trần Hưng Đạo cùng bầu đoàn thê tử vừa ra tới. Cả bọn lũ lượt kéo nhau ra chợ, đi về hướng trái, đoạn đường ngắn lắm chừng độ năm trăm thước. Cà Mau chiều xuống ở vùng ăn nhậu nầy, khung cảnh thiệt là ồn ào náo nhiệt. Đầy đường nam thanh nữ tú dập dìu. Khác hẳn thành phố Sài Gòn ủ rũ buồn rầu, tỉnh lỵ Bình Dương u ám lạnh tanh, chợ Cà Mau, đêm về, không có vẻ gì ảnh hưởng những tác động của thời cuộc. Người dân vẫn rộn rịp sinh hoạt, ăn uống, vui đùa. Hay đó chỉ là bề mặt? Tôi không biết. Tôi chỉ là người khách lạ, ghé tạm qua đây, cũng như hàng ngàn người tới lui tấp nập chiều nay có phải là dân vượt biên bán chánh thức như tôi, cũng không biết nữa. Chỉ biết khi trời vừa sụp tối, chợ Cà Mau bừng sống lại với đủ các loại đèn màu trong các hàng quán ăn uống nhộn nhịp. Những quán bì cuốn, nem nướng, chả giò, bánh hỏi thịt quay, khói bay thơm phức ngào ngạt.

Tư Trần Hưng Đạo níu tay tôi, chỉ vào một sạp bán đồ nhậu:
-- Ê bồ, có nghêu sò y như ở khu La Kay Nguyễn Tri Phương, vô làm một bữa cho đã rồi mai lên đường.

Theo tay anh chỉ, tôi thấy người ta bày bán hàng thúng cua lột, những con cua vỏ mềm xèo màu tim tím nằm im lìm không cục cựa, những rổ sò ốc thiệt tươi ngon, những con tôm thẻ phơi khô xỏ cọng dừa dài cỡ hai gang tay, từng xấp khô mực còn đủ râu ria bên cạnh những chai rượu đế trắng bong trong suốt, những chai rượu nếp than đậm như nhung... Tuy trong bụng cũng thèm lắm nhưng nghĩ tới các món đồ biển dễ trúng độc nầy, tôi bèn lắc đầu. Ở nơi xứ lạ quê người, rủi bịnh hoạn rồi làm sao đây. Phía bên kia là dãy hàng quán bán cháo cá bào ngư, cháo thập cẩm. Trên bàn nhiều tô dĩa men sứ trắng bong vẻ màu xanh đỏ chưng đầy các món cao lương mỹ vị, hấp dẫn làm sao. Tôi níu tay anh Tư:
-- Thôi tụi mình vào đây, mỗi đứa làm một tô cháo dằn bụng, rồi thủng thẳng tính nữa!

Tư Trần Hưng Đạo không chịu:

-- Thôi, hai ông bà thích thì vô đó đi. Tụi tôi qua bên quán đồ nhậu, thử coi Cà Mau với Sài Gòn, chỗ nào ngon hơn!

Tôi bước vô quán, thay vì kêu tô cháo tôi gọi một dĩa mì xào dòn, Duyên, một tô mì vịt tiềm. Xung quanh thực khách ngồi đông nghẹt, người ta ăn uống ồn ào, nói chuyện vang rân. Tôi nghe có tiếng Việt, có tiếng Tàu, tiếng đũa muỗng, tiếng bằm thịt, tiếng nước sôi, tiếng chiên xào, tiếng cười nói... trộn lộn nhau, hòa tan nhau thành một thứ âm thanh hỗn độn náo nhiệt mà thâm tình, rộn ràng sống động mà vui tươi. Trong bụng thấy vui hết sức... Mai nầy mình bước lên ghe, hy vọng cuộc đời sáng sủa!

Anh phổ ky từ bên trong bếp bưng một tay dĩa mì xào, một tay tô mì vịt ngút khói, cẩn thận để xuống bàn. Tôi thấy ngón tay cái của anh ta chấm vô trong tô mì, thiệt là mất vệ sinh, buột miệng cằn nhằn:

-- Trời ơi, sao anh lại thọc ngón tay vô trong tô vậy?
Anh ta trả lời gọn bâng, giọng Việt pha Tiều ngọng nghịu:
-- Hổng có nóng đâu mà, "ngóa" quen rồi!

Nói xong, anh chùi tay vô quần, quay vô trong bình thản như không có gì phải bận tâm hết. "Ngóa" quen rồi... vậy thì mấy ngàn tô mì, tô cháo ở tiệm nầy đều có ngón tay của anh chàng nhúng vô. Mà ở Cà Mau nầy, có ai vì ăn mì mà bịnh hoạn đâu. Thôi đành! Tôi vừa bực mình vừa buồn cười. Cái thằng cha nầy, thiệt tình, hết nước nói!

Tôi và Duyên bắt đầu ăn. Tô mì xào to hết sức bốc khói nghi ngút, các món thập cẩm gan, lòng, mực, tôm để trên mặt trộn lẫn với vài cọng ngò xanh thiệt khéo léo ngon lành. Tôi rán ăn hết sức vậy mà chỉ hết chừng phần ba. Lúc gần xong, tôi nghe có tiếng nói lào xào bên tai:

-- Hà, hà, hai ông bà ngồi tuốt trong nầy im ru bà rù, hèn chi nãy giờ không thấy!

À, thì ra mấy anh bạn người Tàu đi cùng ghe, họ ngồi kế bên hồi nào không hay. Tô Tỷ mặt đỏ gay, A Son xám ngoét, còn Xám Mã Chải thì xanh lè. Anh nào anh nấy áo phạch ngực, điệu bộ đã lừ nhừ. Trên bàn chén dĩa ngổn ngang bề bộn. Trong đám Tô Tỷ là người có học thức, tôi thường nói chuyện với anh ta năm ba câu chuyện văn chương thơ phú Trung Hoa... cho qua ngày giờ. Nhờ đó mà trở nên thân tình.
Xám Mã Chải nhỏ con kéo ghế qua bên, loắt choắt tay rót một ly rượu đế trắng bong, sủi bọt đầy tràn vói qua đưa cho tôi miệng nói:
-- Nè, ông bạn uống với anh em tụi tôi một ly để từ giã Cà Mau.

Tôi khoát tay từ chối:
-- Cám ơn, cám ơn, nhưng tôi không biết uống rượu. Rủi say rồi làm sao?

Tô Tỷ đứng dậy, dáng lảo đảo tiếp lấy ly trong tay Xám Mã Chải, cầm đưa vào tận miệng tôi, rượu chao mạnh muốn tràn ra ngoài.

-- Thôi mà ông thầy giáo ơi, ngày mai tụi mình đi rồi. Rán uống với anh em một ly cho vui. Một ly thôi mà. Hổng uống rồi chừng nào được uống nữa?
Nói xong anh ta thấy tôi có vẻ do dự bèn để ly rượu trở lại bàn, nắm lấy vai tôi lắc lắc:

-- Thôi tụi tôi không ép đâu. Để tôi đọc cho nghe một câu thơ Tàu, ông thầy nếu thấy được thì uống cho vui. Rủi có say thì về ngủ, mai mình mới đi mà.
Anh tằng hắng đổi giọng, cái mũi đỏ ửng, mùi rượu nồng nặc:
Huyêt quánh căng chuần dách búi chẩu
Sấy xuất dườn quán mù cu dành.

Tôi khựng lại, rán lắng nghe. Câu thơ nầy nghe quen quá... quen quá. Phải chi anh đọc theo giọng quan thoại thì dễ hiểu hơn. Tôi lập lại từng âm, từng âm. Phải một hồi lâu mới hiểu được. À, thì ra anh chàng đã đọc hai câu thơ của Vương Duy đời Đường. Tôi đưa tay cầm lấy ly rượu, mắt nhìn sững anh ta. Thiệt tình tôi không ngờ Tô Tỷ đã khéo léo quá chừng, người anh trông cục mịch thô sơ lại đầy tình cảm. Hai câu thơ dùng cho cảnh từ giã Cà Mau tụi tôi chiều nay, thiệt là tuyệt diệu. Duyên níu lấy tay:

-- Thôi, anh rán uống một chút cho vui, nhưng đừng uống hết nghe. Nhiều lắm đó.

Tôi đưa ly rượu lên môi, đọc lại âm chữ nho rõ ràng cho nàng
"Khuyến quân cảnh tận nhất bôi tửu, Tây xuất dương quan vô cố nhân."

Ngày mai nầy tôi sẽ rời Việt Nam, vĩnh viễn để đi về một nơi xa lạ phương trời tây, bạn bè quyến thuộc bỏ lại hết sau lưng, trước mặt là những người không quen biết. Ra nơi biên ải, ai người cố nhơn?

Lòng xúc động bồi hồi, tôi uống một hơi. Tự nhiên không thấy rượu đắng như mọi bận. Cái vị rượu béo béo ngòn ngọt, đặc biệt là nồng thơm hết sức. Tôi uống một hơi dài, rượu tràn vô miệng thấm vào đầu lưỡi, vào tận chơn răng, chảy ngọt ngào qua cuống họng rồi trôi luôn vô bao tử. Ly rượu cạn trơn, tôi nghiêng cho những giọt cuối cùng nhểu xuống hết. Hết trơn, hết thiệt rồi. Tôi để cái ly không trở xuống bàn, lắng nghe một luồng ấm áp từ miệng chạy xuống bụng rồi nghe hơi rượu từ từ bốc lên đầu, nong nóng ở màng tang. Tôi dìu Duyên (hay nàng dìu tôi?) ra khỏi quán, trời đã mát hẳn, đêm chừng đã khuya. Trong ánh đèn chập choạng tôi thấy mấy cục gạch ở dưới chưn tự nhiên nổi lên nổi xuống, kỳ cục quá. Tại sao khi lót mấy người thợ hồ sắp xếp không ngay hàng thẳng lối vậy cà. Bây giờ nó lại lắc lư nữa. Tôi bước theo cục gạch vừa trồi lên, thì cái chưn hụt vô khoảng trống, nghiêng qua một bên, vội chụp lấy vai Duyên. Cả người lảo đảo, biết rượu đã ngấm, miệng vẫn còn nói cứng:
-- Uống mới có một ly, rượu cũng không nồng lắm, chắc chưa say đâu. Duyên nè, em có biết "dương quan" là ở đâu không?

-- Dạ, dạ, không biết, vịn chắc vô vai em nè, coi chừng té, say rồi đó!
-- Để anh giải nghĩa cho nghe. Tây xuất là đi về hướng tây. Muốn dịch chữ nho thì mình phải dịch ngược. Tiếng Việt mình nói thuận, tiếng Tàu nói nghịch. Do đó, em thấy không, nội cái việc phân tách tiếng nói là thấy rõ ràng người mình với người Tàu khác nhau. Vậy mà sử dám viết ông Lạc Long Quân là cháu ba đời của vua Đế Minh ở bên Tàu... Ờ, ờ anh đương nói tới đâu rồi, tây xuất là đi về hướng tây, ở Cà Mau nầy đi về hướng tây thì thế nào cũng đụng Thái Lan hay Mã Lai chớ gì. Vậy thì dương quan là mấy cái xứ đó đó... Thái Lan nè, Mã Lai nè, Nam Dương nè. Mà rủi có bị bão tố giông gió thì trôi tuốt qua Úc cũng vậy.
Hổng lẽ dương quan là Ấn Độ, ai mà chèo ghe tới được, xa quá mà. Mai mốt khi tới anh chỉ cho em coi! Người ở mấy nước đó ăn bốc bằng tay. Vậy xứ nào ăn bốc bằng tay thì gọi là dương quan... Đó là mình nói theo phương pháp tam đoạn luận.

Phần vừa phải bồng con vừa bị ghì nặng, phần tôi cứ lải nhải bên tai, nàng bực mình cằn nhằn:

-- Uống chi cho nhiều tới say mèm nói hoài nói hủy, mùi rượu đế hôi rình. Về tới chùa rồi kìa, coi chừng vấp cái ngạch cửa!

Nàng vừa nói tới đó, thì chưn tôi đá mạnh vào cây cột ở trước hàng ba, cái đầu may quá nhờ lắc lư nên chưa đụng, cũng may còn vịn kịp nên không té, đau thấu trời xanh nên tỉnh hẳn.

Đêm đó trời không trăng nhưng đầy sao lấp lánh. Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng... Trong bước đi chếnh choáng, mắt thấy hàng ngàn ngôi sao rớt lên rớt xuống chấp chóa. Bên trong chùa hàng trăm cái mùng nhỏ giăng dọc giăng ngang, không còn một chỗ trống để đặt cái chưn. Tôi rán kìm cho vững cái thân lắc lư mà len theo vợ, loáng thoáng nghe như có tiếng Tư Trần Hưng Đạo nói văng vẳng:

-- Cà Mau đã quá, đồ ăn ngon lành mà lại rẻ rề. Phải chi hai tháng trời chờ đợi ở Bạc Liêu mà được ở đây thì sướng nhứt hạng...

Không kịp thay quần áo, mí mắt đã nặng trĩu, đầu óc đặc cứng như chì, tôi vội khoát mùng lăn đùng trên tấm ny lông, ngủ một giấc thẳng cẳng không biết trời trăng mây nước... Thủ Dầu Một, Sài Gòn, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau gì cũng quên tuốt luốt hết. Cũng may là tấm ny lông tôi chùi xuống là giang sơn riêng biệt đã chiếm được hồi trưa, không phải của cô hàng xóm độc thân kế cận:
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ
Mùng ai có rộng cho tôi ngủ nhờ một đêm!

Một giờ trưa ngày hôm sau, cả nhóm được hướng dẫn đi từ toán nhỏ xuyên ngang qua chợ để vô những căn nhà bằng cây lợp tôle cất dọc theo bờ kinh Trần Văn Thời. Kinh Trần Văn Thời? Cái tên nầy nghe sao là lạ, tôi chưa từng biết tới. Chắc là tên của một anh hùng liệt sĩ nào đó mới vừa được đặt để ghi công trận trong cuộc chiến vừa qua. Vào giờ nầy chợ vẫn còn đông đúc thành ra khi chúng tôi đi lẫn vào đám đông nếu không tinh ý thì khó mà nhận ra có một nhóm người lạ mặt đang được sắp xếp để xuống ghe. Dãy phố đó có nhiều căn thấp lè tè. Đằng trước các bạn hàng bày bán đủ loại thức ăn cùng vật dụng thiết yếu hàng ngày. Tôi thấy nào dừa, thơm, khoai lang, khoai mì, gạo, khô, quần áo, vải vóc, kim chỉ, đồ mủ nhựa... chất trên từng chiếc sạp cây nhỏ. Khách hàng là các bà nội trợ tay xách nách mang chen lấn nhau. Tôi dắt Duyên lách vào một căn, cửa chỉ mở hé. Bên trong đã đông người. Nhìn ra là người quen cùng ghe, cũng có vài bộ mặt lạ. Căn phố trống trơn không bàn ghế bếp núc tủ giường. Hình như đây là nhà vựa để chứa hàng hóa. Nhưng hàng hóa đã được lấy đi đâu hết rồi, bây giờ người ta dùng làm địa điểm tập hợp để xuống ghe. Tôi đếm tất cả được trên hai trăm. Gương mặt người nào người nấy căng thẳng nghiêm trọng, không nghe tiếng cười nói hàng ngày. Tư Trần Hưng Đạo đứng bên vách hút thuốc liên miên, mấy đứa con mặc áo phao bằng những miếng mốp dầy may lại. Duyên lột trái quít đưa cho tôi, kề tai thì thầm:

-- Rán đừng nói tiếng Việt, có thằng cán bộ Hoa Vận đứng với Nhựt Bổn kiểm soát ở phía cửa sau kìa.

Tôi liếc mắt nhìn ra sau thấy một người đen đủi cao lớn áo sơ mi trắng, quần ka ki xanh bộ đội, chưn mang dép râu, kế bên là Nhựt Bổn. Nhựt Bổn cũng là chủ ghe có phần hùn với Hủ Tiếu. Anh ta người Tàu, mắt hí, đầu sói giống hịch người Nhựt. Gọi hoài nên thành tên. Tôi lắng nghe cả hai nói chuyện. Tên cán bộ nói tiếng Tiều rất giỏi, có lẽ nó là dân đầu gà đít vịt Tiều lai Miên nên đen thui. Cả nhà ai nấy đều lặng thinh nên nghe cả hai nói chuyện nghe lồng lộng. Tô Tỷ đứng kế bên làm thông ngôn và chỉ huy:
-- Lần lượt xuống ghe từng gia đình, đi cẩn thận coi chừng lọt xuống sông. Gia đình mấy người thì xuống mấy người, không được nhiều hơn. Ai xuống nhiều hơn thì bị bắt ở lại cả nhà...

Ngoài cửa sau, có ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm đậu cặp sát nách. Người ta lần lượt xuống từ từ. Hoàn toàn không điểm danh và sổ sách gì cả. Nhựt Bổn và tên cán bộ chỉ đứng bên cửa ngó theo. Có thằng nhỏ lối xóm độ mười tuổi ở trần đen thui, ốm nhom ốm nhách lòi cả xương sườn xương sống chun vô nhà hồi nào không ai biết, chắp tay sau đít đứng kế bên. Hồi lâu ngó chán nó quay qua hỏi:
-- Mấy người nầy lên ghe đi đâu vậy ông?

Anh cán bộ lừ mắt ngó nó vẻ hăm dọa, điều bất ngờ là anh ta bật nói tiếng Việt:

-- Đi kinh tế mới đó mầy!

Thằng nhỏ cũng ngon lành, không sợ nghinh lại:

-- Ông nói dóc với tui, họ đi vượt biên.

Anh ta quê quá, đuổi nó ra cửa trước.

Tôi đi ra phía sau, thấy dưới ghe người ta đã ngồi gần đầy. Mỗi lần có người bước xuống chiếc ghe chòng chành. Vì toàn là dân thành phố chưa quen sông nước, vả lại quần áo lượt bượt dép giày lôi thôi, nhứt là đàn bà, con gái quần dài áo rộng lao chao lụp chụp. Tới phiên tôi và Duyên. Tôi giành bồng lấy Bi. Duyên vịn vào thành cửa, bước xuống ghe trước. Chiếc ghe chao mạnh. Mấy người ngồi bìa vói tay giữ chặt lấy cột cầu. Nàng chọn lấy một chỗ giữa khoang. Tôi đưa Bi và leo xuống theo ngồi cạnh. Cái xách tay đeo bên vai. Yên chí tôi đưa mắt nhìn lại căn nhà. Nó là một dãy nhà sàn được cất trên những hàng cột tràm đóng sâu trên mặt nước dọc mé sông. Vách sau được đóng ghép những tấm ván dày để ghe tiện cặp vào chuyên chở hàng hóa. Nó vừa là nhà vựa, vừa là cầu tàu. Lúc đó độ hai giờ trưa, nắng chói lung linh mặt nước. Lòng tôi vui như mở hội. Mấy tháng trời chờ đợi chỉ mong được có buổi hôm nay. Tôi nhìn trời, trời sáng trưng, nhìn nước, nước long lanh, nhìn người người nào cũng tươi rói nói cười. Tôi nhìn những cây cừ tràm dưới nhà sàn thấy mực nước đánh dấu bùn sình đen đủi lưng chừng đáng yêu hết sức. Tự dưng cái gì cũng đẹp cũng nên thơ. Cuối cùng rồi cũng đầy khoang. Ghe nổ máy dòn dã chạy ra giữa dòng kinh. Chiếc kế từ đâu không biết chạy kề lại, tiếp tục đón khách xuống. Mỗi chiếc chứa được khoảng ba mươi người, tất cả là bảy chiếc khởi hành tại hông chợ Cà Mau chạy dọc theo kinh Trần Văn Thời. Nước kinh đầy phù sa, lóng lánh ánh mặt trời giữa trưa chói chang. Người ngồi trên ghe dù nón sặc sỡ, quần áo đủ kiểu đủ màu khác hẳn với các ghe địa phương.

Dòng kinh thẳng tắp. Một đoàn ghe bảy chiếc chạy nối đuôi nhau, ở xa nhìn như ghe đám cưới. Trên mặt nước loáng nắng ghe thuyền xuôi ngược đông như mắc cưỡi. Những chiếc ghe chài chở khẳm nặng nề lướt lừ đừ, những chiếc tam bản nhỏ xíu nhẹ nhàng lao vun vút. Dân chúng hai bên bò kinh biết rõ là đoàn ghe đi vượt biên, họ đưa tay chào từ giã, nồng nhiệt. Người trên ghe cũng vẫy tay giã từ. Cái tình đồng bào thiệt thân ái mà vui. Tôi nghe lòng ấm áp. Cảnh biệt ly ở đây không có vẻ gì buồn hết. Người đi thì muốn đi lẹ hơn. Người ở lại cũng nhận thấy ra đi là phải. Có sống dưới chế độ nầy mới hiểu được tại sao người dân lại muốn ra đi rời bỏ quê hương, một điều rất khổ tâm đối với người Việt Nam, một dân tộc có truyền thống bám chặt với quê hương xóm làng. Có nhiều người ngoại quốc họ vẫn chưa hiểu và binh vực Cộng sản. Nhiều khi tôi có ý nghĩ xấu là ước gì quốc gia của họ, một sớm một chiều bị nhuộm đỏ thì sẽ biết ngay lý do tại sao chúng ta, những người vốn yêu mến quê hương đậm đà, lại dứt khoát ra đi như vầy.


Có lẽ vì là lần đầu tiên đi ghe trên kinh rạch nên Duyên nhìn say mê thích thú những cảnh vật xung quanh. Nàng chỉ cho tôi một chiếc ghe hàng, trên khoang chất đầy hàng hóa, phía sau có người đàn bà trọng tuổi nấu cơm, khói bay mịt mù, vài ba đứa con nít mình mẫy đen thui trần truồng chạy giỡn. Bên be có mấy cái lồng gà bằng cây, mấy chậu ớt trái chín đỏ, mấy chậu rau xanh có vài chậu bông thọ đã tàn rụi.
-- Anh coi kìa, ngộ quá, cả gia đình sống luôn trên ghe. Chật chội quá hả, rồi làm sao tắm rửa, ăn ở?

-- Thì vùng đất nầy ẩm thấp đầy sông rạch, phải di chuyển bằng ghe xuồng. Lo gì chật chội, trên khoang thì đủ chỗ để ăn ở, trên trời thì mây gió trăng nước thiếu gì. Họ sống quanh năm suốt tháng vui vầy, vợ chồng con cái xum họp quanh nhau. Em thấy họ hạnh phúc không, chưa chắc gì mấy người ở thành phố sang trọng, quần áo bảnh bao mà được sung sướng hơn. Em để ý mà coi những câu ca dao dễ thương hồn nhiên mộc mạc thường chỉ xuất hiện nơi thôn dã:
Trời xanh kinh đỏ đất xanh
Đĩa bu, muỗi cắn làm anh nhớ nàng.

Duyên thắc mắc:

-- Nước ở kinh nầy đục ngầu bùn đất màu cà phê sữa lợt lờ lợ chớ đâu có đỏ?
-- Câu ca dao trên xuất hiện vào thời những con kinh miền Nam mình mới được đào. Đất miệt nầy do phù sa sông Cửu Long bồi đắp nên nhiều phèn. Đào kinh để rút hết chất phèn, đất mới mong trồng trọt được. Phèn trong đất gặp mưa chảy vào kinh, mùa nắng nổi lên trên mặt nước, đóng váng đỏ màu gạch cua. Phải chờ một vài mùa mưa nắng phèn mới rút hết ra sông ra biển, nước kinh mới hết đỏ. Hồi xưa đời Chúa Nguyễn, lúc mới khai phá người ta đào kinh bằng tay, đến đời Pháp thuộc đào bằng xáng múc:

Chừng nào xáng Mỹ bung vành
Tàu Tây lủng máy anh mới đành xa em.

-- Thiệt không đó, em thấy tàu bây giờ hư hoài, phải đem vô sở Ba Son để sửa...

-- Thì hồi xưa, người mình chất phác thấy cái gì của Tây cũng cho là tốt, không bao giờ hư. Mỹ là Mỹ Tho đó...

Đoàn ghe vẫn lướt phăng phăng trên sóng nước. Qua nhiều xóm làng u tịch, lác đác đây đó vài mái nhà tranh xam xám quạnh hiu bên những bụi chuối tàu lá phất phơ rách tưa vì gió nắng. Mặt đất phẳng lỳ. Mùa nầy đồng ruộng chỉ còn trơ những gốc rạ xám vàng trải dài tới tận chơn trời xanh xanh. Tất cả chìm trong biển nắng, xa vắng mênh mông. Thỉnh thoảng dọc bờ kinh thấy có những trại mộc, đang đóng dở dang nhiều ghe đi biển lớn, khung ghe đều đặn như những chiếc xương sườn loài khủng long thời tiền sử.

Khoảng ba giờ trưa đến Tắc Thủ. Những làng xóm ở đây thường bắt đầu bằng chữ Tắc. Tôi đã đi qua Tắc Vân, Tắc Sậy... Không thấy chợ búa nhà cửa phố xá, chỉ thấy một hàng cây xanh xanh với lau sậy um tùm bên bờ. Có một cái vó cá đặt im lìm bên gốc cây vừng lớn gie ra mặt nước, đầy hoa đỏ hồng hồng rụng vương vải đó đây. Đoàn ghe từ từ chậm lại rồi tắp vào. Bãi sình lầy lội đen thui. Anh lái ghe nhảy xuống trước, hai chưn lún vô sình đến tận đầu gối bước lần từng bước khó khăn. Cột ghe vào gốc cây xong, anh chạy u lên bờ quơ một ôm rơm rạ rồi lót trên bãi sình. Cả đám lục tục đổ bộ vào trong một gian nhà tranh. Căn nhà ở tuốt sâu bên trong nên khi ngồi dưới ghe thấp không thấy. Nhờ rơm nhiều nên không bị lún mất dép nhưng chưn cẳng lấm lem chèm nhẹp. Quanh nhà có trồng tre, chuối, có ao thả cá, có chuồng nuôi heo. Tôi lững thững bước vô trong, thấy giữa nhà là ảnh Hồ Chí Minh để trên bàn thờ tổ tiên. Trên đó có ba bốn tấm hình thanh niên, kế bên là những giấy chứng nhận liệt sĩ in màu đỏ tươi tương phản với màu xám đen của bàn ghế, tường vách...

Chủ nhà là một cán bộ địa phương đã trọng tuổi, dáng khắc khổ gầy gò. Ông ta nhìn chúng tôi soi mói, vẻ lãnh đạm. Tôi bước lách sang bên hông nhà tránh cái nhìn của ông, cẩn thận dè dặt vẫn hơn. Ông bây giờ là kẻ chiến thắng, còn tôi người chiến bại... Nhưng suy nghĩ cho cùng cả hai đều đáng thương như nhau, đều là nạn nhơn của một thứ quyền lực mới. Tất cả mọi người rồi sẽ bị nghiền nát, xóa bỏ trong bộ máy chủ nghĩa khổng lồ.

Ngồi trên một khúc cây mục ở ngoài sân, Tô Tỷ cầm viết ghi tên từng người miệng tía lia:

-- Mỗi người đóng hai đồng, nhờ bà chủ nhà nấu cho ăn bữa cơm chiều. Nửa đêm ghe lớn mới tới. Ai ăn thì ghi tên đóng tiền liền.

Trước nhà có sân rộng có tàng cây lớn. Gió từ kinh thổi lên lồng lộng sảng khoái mát mẻ. Bên kia bờ kinh là rừng lau sậy ngút ngàn chạy dài tới tận chơn trời. Mọi người ngồi đứng lăng xăng, có kẻ kiếm chỗ nằm nghỉ mệt. Tôi chọn một chỗ quang đãng, lót cái áo khoác xuống đất để mẹ con ngồi, rồi thả lang thang qua xóm kế bên.

Lần theo lối mòn cách đó chừng trăm thước tôi gặp đám hành khách của chiếc 0126 đã ở từ trước. Gặp anh bạn quen kề tai nhắc nhỏ:
-- Nếu mầy còn tiền, kiếm bà chủ nhà nhờ luộc cho con gà hoặc con vịt ăn cho đã, tội gì đem theo mà xài không được. Đồ thứ tiền cô hồn!

Buổi ăn chiều gạo mục nát nuốt không vô, đồ ăn hầu như không có. Tôi không nghe đói lắm nên chỉ ăn chừng một chén. Vừa ăn xong trời đương sáng đỏ bỗng sụp tối rất nhanh, mọi vật trở nên đen thui u ám, không thấy được gì hết. Tất cả được phủ trong màn đêm kín bưng. Tự nhiên trong cái đám lào xào đen đủi đó, tôi nghe văng vẳng có tiếng người kêu lớn:
-- Ông nào hồi nãy nhờ luộc con gà? Ông nào... nhờ luộc con gà?

À, thì ra bà chủ nhà xách con gà luộc mò mẫm trong đám đông hằng mấy trăm người để kiếm tôi. Khi nhờ bà luộc gà ơ hờ không nói rõ tên họ, thành ra bà phải vừa đi vừa hô lớn. Tôi mừng quá, chạy lại còn bao nhiêu tiền móc hết đưa cho bà. Bà già thiệt dễ thương hết sức, đã luộc dùm con gà thiệt lớn mà còn cho thêm một lon guigoz cháo nóng. Nhờ con gà nầy mà vợ chồng tôi tỉnh táo sau mấy ngày sóng gió lênh đênh. Hôm đó là ngày gần cuối tháng giêng âm lịch, trời thật trong, không trăng nhưng đầy sao. Tôi lẩn quẩn bên Duyên và mấy đứa em vì sợ lạc. Thỉnh thoảng có tiếng gọi nhau ơi ới. Đâu đây có một hai người đốt thuốc, ánh diêm quẹt lóe sáng lên rồi tắt ngấm. Mùi diêm sinh hôi nồng. Tôi lấy cái áo khoác bận vô vì trời lành lạnh và đàn muỗi đã bay tới tấp. Đêm càng lúc càng khuya. Trời tối đen như bưng lấy mắt. Chỉ nghe có tiếng nói chuyện rì rào, tiếng ho khúc khắc. Trong lòng tôi hồi hộp nhưng đầy phấn khởi, náo nức. Đứng lắng yên bên vợ con tôi nghe tiếng tim đập nhịp nhàng, nghe cả tiếng côn trùng rỉ rả đầy đồng, tiếng gió rào rào qua kẽ lá... Bỗng nhiên trong cái yên lặng tối đen có tiếng máy ghe nổ từ xa, văng vẳng. Tiếng động cơ càng lúc càng lớn dần. Mọi người trở nên xôn xao, đứng bật dậy. Một chiếc xuồng gắn máy rẽ sóng chở anh cán bộ Hoa Vận hồi trưa đến. Anh cầm cây đèn pin dài ngoằn, tia sáng chiếu loang loáng thiệt xa len vào tận đọt dừa trên cao. Tôi rán nhìn vào chiếc đồng hồ tay của người kế bên. Ánh lân tinh lờ mờ nhưng cũng đủ để thấy gần đúng mười giờ đêm. Tiếng ra lịnh oang oang:

-- Một chút nữa ghe lớn tới. Tất cả hành lý xách tay đem theo phải để trên mui, mọi người đi tay không xuống ghe.

Đi tay không xuống ghe? Vậy thì làm sao bây giờ. Trong bóng đêm mù mù tôi mò trong cái xách tay nhỏ lấy ra bàn chải đánh răng, các thứ thuốc, thịt cá chà bông, kẹo đường chanh và vài món lặt vặt cho tất cả vào trong một cái túi nhỏ, sắp xếp thiệt gọn rồi đeo vào cổ. Duyên thì cầm tay bình nước một lít. Tôi dùng dây dù cột chắc xách tay lại để khi ghe lớn đến thì bỏ lên mui cho tiện.
Sửa soạn đâu đó vừa xong thì thấy chiếc 0126 lù lù tới rọi đèn sáng hai bên bờ. Cách đó chừng vài trăm thước ở phía sau là chiếc 1648 đèn đuốc sáng rực trên mui, trong khoang. Tiếng máy nổ của hai chiếc ghe lớn gây náo động cả một khúc sông. Bây giờ nơi đây như một phiên chợ đêm họp giữa đồng, ánh sáng mờ ảo tiếng người nói chuyện, tiếng bước chưn lao xao, bóng người di chuyển như những bóng ma chập chờn. Tôi thấy cái gì cũng mông lung huyền ảo. Cảnh thực hay mộng?

Có lịnh xuống ca nô để ra ghe lớn. Người ta chen lấn, giành giựt xô đẩy nhau. Nước kinh nửa đêm chảy nghe cuồn cuộn, tiếng róc rách nghe rõ mồn một. Trời ơi, nếu lỡ trợt chưn lọt xuống sông thì làm sao? Chắc chết quá. Tình trạng thiệt nguy hiểm vì nước chảy quá mạnh. Những ngọn đèn trên ghe lớn phản ánh xuống mặt nước thành hàng trăm con rắn vàng lóng lánh ngoằn ngoèo. Ca nô nhấp nhô dưới lườn ghe theo từng lượn sóng dập dồn. Trên ghe thả xuống một cái thang dây. Từng người leo lên chầm chậm, chiếc thang đong đưa. Tôi giành ẵm lấy Bi, Duyên cầm lấy hai đôi dép chân cố bám xuống sình cho khỏi trợt té. Đoạn đường từ bờ xuống ca nô chỉ chừng năm thước, vậy mà sao thấy thiệt dài. Bùn sình nhão nhoẹt, rơm rạ lót dầy lúc ban chiều, bây giờ bị nước lớn cuốn trôi đâu hết. Loay hoay rồi thì hai đứa cũng leo lên được ghe lớn. Trong khoang đặc nghẹt người ngồi, không còn một chỗ trống. Tôi và Duyên lần mò lên mui, chen lấn mà đi. Chỗ nào cũng chật cứng. Thôi đành ngồi trên boong, chật bó lom khom vì bị cái mui bên trên đè xuống.

Người lên ghe đã hết. Trên ca nô bây giờ chỉ còn có anh cán bộ và người lái. Cả hai khoát tay từ giã. Ghe bắt đầu khởi hành chạy dọc bờ kinh. Đi ngang qua chiếc 0126C thấy nó còn đậu để rước khách. Trời tối đen như mực. Trên ghe có một ngọn đèn pha sáng rực soi về phía trước. Một ngọn đèn pha phụ được rọi dọc theo bờ để tránh các đáy đánh cá. Nhiều quá, các hàng đáy giăng giăng, những cọc tre dựng đứng thẳng trên mặt nước, có treo những ngọn đèn nhỏ xíu lập lòe để làm dấu. Duyên thấy lạ mắt chăm chú nhìn. Nước kinh chảy mạnh, các cột tre đong đưa, ngọn đèn chao qua chao lại.

-- Em nghe nói đáy đánh cá hoài, mãi bây giờ mới thấy. Té ra là lưới giăng ngang qua sông để bắt cá.

-- Ừ, miệt nầy thiếu gì cá tôm. Chỗ nào có sông rạch thì người ta đóng đáy. Em có biết câu hát nầy không --

Đèn treo cột đáy, nước chảy đèn rung,
Anh thương em thảm thiết vô cùng
Biết cha với mẹ có bằng lòng hay không...

-- Trời, câu hát dễ thương quá hả anh!

-- Ừ, nói chung thì người dân quê thiệt thà chất phác, thương thì nói thương ghét thì nói ghét. Có điều người mình thường bị ràng buộc bằng đủ mọi lề thói, tập tục, thành kiến... nên tình cảm bị gò bó, không được thoải mái.

Ghe thỉnh thoảng phải ngừng lại để soi cho rõ, rồi tiếp tục lướt êm trong màn đêm. Chừng độ một giờ, ghe ra tới sông Ông Đốc. Sông rộng mênh mông. Vụt một cái nghe nước chảy ào ào, thiệt mạnh. Thỉnh thoảng lại gặp các hàng đáy nữa. Hai bên bờ xa tít mù lờ mờ rừng đước, rừng tràm, lau sậy. Tất cả chìm trong khói sương. Tiếng máy ghe nổ dòn dã đều đều. Tuy thức đã gần suốt đêm, hình như không ai buồn ngủ. Con sông dài quá. Tôi rán hết sức nhìn lên bờ. Chỉ thấy mờ mờ sương khói với những rặng cây đen đen ở chưn trời xa. Rặng cây nầy nối tiếp rặng kia lâu lâu đứt đoạn bằng những con lạch nhỏ. Ghe êm đềm lướt mãi trong màn đêm quạnh hiu lặng lẽ.

Trong cái êm lặng mênh mông tôi nửa mê nửa tỉnh, bỗng thấy Xám Mã Chải ở dưới khoang ghe leo lên boong, tay hắn cầm một cái bao giấy lớn miệng léo nhéo:
-- Ai còn tiền dư, xin bỏ vào bao để cho mấy người trên đồn. Mình đi rồi tiền đâu còn xài được nữa.

Thiên hạ người móc túi kẻ móc bóp trút hết số tiền còn lại. Tôi không còn đồng nào, tất cả đã cho bà già luộc gà. Thấy tiền Hồ Chí Minh, nhớ câu nói của anh bạn hồi chiều -- đồ thứ tiền cô hồn! Tiền cô hồn thì đem cúng cô hồn, phải quá rồi. Chỉ trong vòng năm ba phút, cái bao căng đầy. Số tiền có thể trên cả trăm ngàn...

Chiếc ghe đang lướt nhanh bỗng từ từ chậm lại rồi ngừng hẳn, tiếng máy vẫn nổ đều đều, êm êm. Trước mặt bây giờ là một căn cứ hải quân. Rải rác ở giữa sông có vài ba chiếc tàu sắt lớn sơn màu xam xám neo đậu im lìm không đèn đuốc. Trên bờ là một căn cứ hải quân biên phòng với một cầu tàu lớn bằng sắt sơn đen. Xung quanh bến có các ghe gắn máy, xuồng đổ bộ. Các ụ súng phòng không với các lô cốt chất đầy bao cát, các ngọn súng chĩa xéo lên trời.
Duyên giựt mình tỉnh hẳn, ngó những ngọn đèn vàng vọt trên đồn, khều tôi nói nhỏ:

-- Tới trạm hải quân biên phòng, thế nào mình cũng bị xét hỏi.

Tôi lặng thinh hồi hộp. Hủ Tiếu len lách giữa đám người đen nghẹt, tay cầm bao bạc vừa xin được, è ạch vịn vào những ghe tàu đậu sát bên lần vào tới được cầu sắt ở trên rồi đi vô trong. Từ dưới nhìn lên vắng tanh không một bóng người. Trời còn tối lắm nhưng đêm chắc cũng gần tàn. Ghe đã đi gần năm, sáu tiếng đồng hồ rồi. Đoạn đường trên sông Ông Đốc đâu có xa xôi gì, vậy mà chạy gần nửa đêm.

Hủ Tiếu đã lên tới bờ, bóng đã khuất sau cổng đồn. Phải cả giờ sau, mới thấy ông ta đi ra với một cán bộ. Rồi hai người chào từ giã nhau. Hủ Tiếu lại è ạch xuống cầu tàu rồi lần theo be ghe leo lên ghe lớn. Ghe nổ máy lớn hơn, rẽ sóng thẳng ra đại dương. Hoàn toàn không có kiểm soát xét hỏi gì. Tôi thở ra nhẹ nhõm.

Trong khoang ghe nhiều tiếng xì xào:

-- Ra tới biển, ra tới biển rồi!

Tôi sực nhớ tới vở cải lương có tựa "Thuyền Ra Cửa Biển" của soạn giả Viễn Châu. Rất tiếc là chưa coi nên không biết có cảnh nào giống như cảnh nầy không. Biển cả đối với tôi là cái gì kỳ bí, nhiệm mầu, huyền hoặc. Lúc còn dạy học ở Sóc Trăng, năm Mậu Thân đường bộ bị giựt mìn phá hoại, phải xuống trường bằng đường sông. Từ Cần Thơ đi thẳng ra cửa biển Đại Ngãi, ngang qua Kế Sách để đến Lịch Hội Thượng. Khi gần ra tới biển ghe chòng chành dữ dội, sóng đánh ầm ầm vào hai mạn ghe. Các thanh gỗ, be ghe, sườn ghe vặn mình kêu răng rắc. Nước văng tung tóe. Hành khách phải đóng tất cả các cửa bên hông. Ngồi trong khoang tôi cảm thấy ghe nhào lộn lắc lư như chiếc lá nổi chìm trên sóng nước. Ngoài khung cửa kiếng nhỏ thấy bọt nước tung lên trắng xóa mù trời, chiếc ghe quay cuồng như giữa thác nước lớn. Biển cả còn ở xa tận ngoài kia. Cũng may cũng chỉ chừng năm mười phút chịu đựng ghe tắp vào Đại Ngãi để lên bờ. Đại dương vẫn còn ám ảnh trong trí nhớ.

Bây giờ tôi thực sự được chứng kiến biển cả bao la. Trời thật đẹp. Tiếng sóng đập vào hai bên mạn ghe êm ái làm sao. Biển xanh rờn mênh mông, chỉ thấy trời và nước một màu. Vùng giáp mí giữa sông và biển, nước vẫn phẳng lờ, không một gợn sóng to. Cửa sông Ông Đốc rộng hàng mấy cây số, ở bên nây bờ chỉ thấy thấy bên kia mờ mờ xanh xanh, nước phù sa tuôn ra biển khiến một vùng nước xanh đục lờ lợ. Năm ba cánh chim biển chao mình bay lượn trên không. Trời sáng rờ rỡ. Không khí mát mẻ trong lành. Tôi nhìn qua Duyên thấy Bi đã mở tròn đôi mắt ngơ ngác nhìn quanh. Duyên mỉm cười nhìn tôi:

-- Bi ngủ suốt đêm tới giờ mới thức, đâu biết đã rời Việt Nam!
Nghe vợ nói tới bốn chữ "đã rời Việt Nam" tôi vội nhìn ngoái lại:
Đoái trông theo, đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.
(Chinh phụ ngâm)

Trạm hải quân biên phòng đã mất hút. Bốn bề là trời nước. Bất giác tôi tự thấy tự do đầy sảng khoái. Như con chim vừa thoát khỏi cái lồng chật hẹp, tôi hít mạnh một hơi dài không khí trong lành buổi sáng giữa biển khơi vô đầy hai lá phổi. Tôi sung sướng đưa mắt nhìn quanh. Trên ghe toàn người là người. Nhưng ai nấy đều rạng rỡ hân hoan. Thôi, kể từ nay không còn bị kiểm soát giấy tờ, không cần thuộc lòng bản lý lịch nữa, kể từ nay không còn sợ anh Ba, anh Bảy, chị Tư, chị Tám, kể từ nay chấm dứt nỗi sợ hãi học tập tù đày.
Vĩnh biệt đảng Cộng sản quang vinh. Vĩnh biệt đất nước của những anh hùng liệt sĩ đánh Tây, đánh Nhựt, đánh Mỹ, đánh Tàu và đánh luôn cả những người dân Việt vô tội. Non sông gấm vóc bốn ngàn năm tổ tiên dày công gây dựng, người ta chỉ cai trị trong vài năm nó trở nên tan hoang xơ xác điêu tàn, đâu đâu cũng thấy đói rách lầm than. Người ta đã nhân danh quá nhiều thứ để làm công việc phá hoại chém giết đó. Một trong những tội tày đình là tội độc quyền yêu nước, gạt những người không cùng chính kiến ra ngoài lề xã hội và coi họ là kẻ thù cần phải tiêu diệt.

Ôi! Cùng chung một màu da, một tiếng nói, một nguồn cội, một lịch sử vậy mà người ta nỡ đối xử nhau như người dưng nước lã. Hàng ngàn trại học tập khổ sai hoang vu, hàng ngàn nhà giam đầy những cực hình. Cả đất nước là một nhà tù khổng lồ nhốt sáu chục triệu dân nghèo đói thảm thương. Vậy mà những người cầm quyền vẫn chưa sáng mắt, miệng lưỡi lúc nào cũng ca ngợi một thứ chủ nghĩa ngoại lai thiếu nhân tính.

Tôi là một người dân thường, ước ao được sống một cuộc đời tầm thường an phận. Ít ra trong giấc ngủ khỏi phải phập phồng sợ hãi từng tiếng bước chưn, tiếng gõ cửa giữa đêm khuya và biết chắc rằng sáng hôm sau mình vẫn còn bình yên, sống vui vẻ bên vợ con gia đình. Trời sanh tôi có mắt, có tai, có miệng và một trái tim. Nếu mắt không được nhìn, tai không được nghe, miệng không được nói và nhứt là trái tim không được đập theo nhịp yêu thương, hờn giận, vui buồn... thì đó là điều đau khổ nhứt của kiếp người.
Vì vậy tôi phải bỏ xứ mà đi...

Võ Kỳ Điền